Nhớ mãi những năm tháng ấy - NSND Trần Đình Sanh
Mùa hè năm 1966, Đoàn nghệ thuật Tuồng và Dân ca khu V do Bộ Văn hóa vừa chi viện vào chiến trường gồm hầu hết những nghệ sĩ giỏi, những cán bộ hoạt động nghệ thuật dày dạn kinh nghiệm, trên đường đi biểu diễn phục vụ đã bị quân Mỹ tập kích ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, nhiều nghệ sĩ đã bị giặc bắt, tra tấn và bỏ tù, đây là một tổn thất lớn đối với Ban tuyên huấn khu V lúc bấy giờ, và cũng là tổn thất của hai bộ môn tuồng và bài chòi Liên khu V.
Đầu năm 1967, tỉnh ủy Quảng Nam quyết định thành lập Đoàn Tuồng Giải phóng. Các nghệ sĩ tuồng Trần Ngọc Tư (Tư Bửu), Lê Quang Ngạch, Phạm Văn Điền, cùng các nghệ sĩ Hoàng Lê, Trần Chức, Võ Ngọc Anh (dân ca) ở tiểu ban văn nghệ, Ban Tuyên huấn khu V những người vừa thoát chết trong cái ngày bi thảm ấy, được mời về Quảng Nam để lo tuyển sinh, giảng dạy, dàn dựng chương trình, chuẩn bị xây dựng Đoàn Tuồng Giải phóng Quảng Nam. Các anh Hoàng Hương Việt, Trần Đình Hòa (tức Hoàng Minh Hiệp), Hoàng Kim, được Ban Tuyên huấn tỉnh cử sang phối hợp với các anh tỏa đi tuyển sinh ở các huyện.
Ngày 21 tháng 7 năm 1967, tại Thôn 1, xã Phước Lãnh (nay là xã Tiên Lãnh) huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam - một vùng căn cứ kháng chiến của Quảng Nam, Đoàn Tuồng Giải phóng tỉnh Quảng Nam được thành lập. Gần 30 anh chị em gồm diễn viên của những đội văn công giải phóng ở các chiến trường Quảng Đà, Quảng Nam (Quảng Tín), các đồng chí lớn tuổi am tường hát bội đang hoạt động ở các vùng tự do, vùng mới giải phóng được quy tụ, biên chế như một đơn vị chiến đấu. Lãnh đạo gồm trưởng đoàn Hoàng Minh Hiệp (tức Trần Đình Hòa) và ba người chịu trách nhiệm về mặt nghệ thuật (dạy nghề và dàn dựng tiết mục): Trần Ngọc Tư (Tư Bửu), Phạm Văn Điền, Lê Quang Ngạch. Ban đầu, mọi điều kiện vật chất rất khó khăn, từ lương thực, thực phẩm, đến y trang, đạo cụ, nhạc cụ, nhà ở, phòng tập, hầm chống phi pháo, tất cả đều do thầy trò tự làm, hoặc phải mua sắm lấy. Gạo thóc, mắm muối, dầu thắp đến vật tư, vải vóc, phông màn, phục trang, mỹ phẩm hóa trang phải móc nối với cơ sở ở tận thị xã Tam Kỳ, Đông Quế Sơn, Bắc Tam Kỳ, có loại phải từ Đà Nẵng chuyển vào...
Khó khăn, gian khổ là vậy, nhưng lãnh đạo và nhân dân địa phương đã giành cho lớp học, cho đoàn những điều kiện tốt nhất mà vùng giải phóng có, như việc: huy động một lúc 12 bàn máy khâu, tập trung tại nhà bà Hà ở thôn 1, xã Tiên Lãnh để may phục trang, phông màn. Gần hai tháng trời hoạt động liên tục, căng thẳng về mọi mặt, cho kịp lễ ra mắt của Đoàn mới thấy hết sự quan tâm giúp đỡ đó quan trọng biết chừng nào!
Bài học đầu tiên là các lớp tuồng trong các vở "Trảm Trịnh Ân", "Ngũ Hổ Bình Liêu", "Trưng Nữ Vương đề cờ" do nghệ sĩ Tư Bửu nhớ lại, soạn miệng và truyền dạy. Anh Phạm Văn Điền dạy vũ đạo; còn dạy vai, dựng lớp thì có anh Lê Quang Ngạch. Trong điều kiện hết sức khó khăn, nhưng cả thầy và trò đều hăm hở, say sưa trong dạy và học.
Vở diễn của Đoàn chính thức ra mắt vào đêm trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân (1968) là "Trần Bình Trọng" của Nguyễn Kim Hùng. Với một Trần Thị Minh Chừ khá điêu luyện trong vai "Trần Bình Trọng", Bùi Thị Bích Liên trong vai "Lê Vạn" (cháu của Trần Bình Trọng), Trần Đình Sanh trong vai "Trần Lộng" (nhân vật phản diện thời Trần), Hà Ngọc Tiên trong vai "Thoát Hoan" (thái tử nhà Nguyên), Nguyễn Văn Bích trong vai "Ô Mã Nhi" (tướng Nguyễn) cùng một số diễn viên khác mà tuổi đời chưa đến 15, 17. Buổi biểu diễn thành công rực rỡ trước đông đảo lãnh đạo Khu ủy khu V, Tỉnh ủy Quảng Nam và rất nhiều cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng, nhân dân các xã vùng giải phóng Tiên Phước. Thành công bước đầu này, đã động viên anh chị em phấn khởi ra quân đi phục vụ chiến dịch Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân (1968).
Mùa hè năm 1968, đoàn trở về căn cứ, dàn dựng vở mới: "Trần Quốc Toản ra quân", của Nguyễn Kim Hùng, "Trưng Nữ Vương" của Tống Phước Phổ. Diễn viên Bích Liên lại thành công trong vai "Trần Quốc Toản", Hằng Nga sau vai "Ái Nương" vở "Trần Bình Trọng", nay trong vai "Kim Chi" vở "Trần Quốc Toản" và "Trưng Nhị" trong "Trưng Nữ Vương". Đoàn có thêm nhạc công Doãn Xảo (Hai An) rút từ Đoàn văn công huyện Quế Sơn. Địa bàn hoạt động mở rộng đến hầu hết các xã trong vùng giải phóng và giáp ranh thuộc các huyện Tiên Phước, Tam Kỳ, Quế Sơn, Thăng Bình, vùng ven thị xã Tam Kỳ... Trên đường lưu diễn năm 1969 diễn viên Nguyễn Văn Bích, Phan Thị Mộng Hiền đã hy sinh và 03 đồng chí khác bị thương dưới làn đạn của máy bay lên thẳng Mỹ tại Đồng Lùng xã Sơn Trung (nay là xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn). Lại một tổn thất đau lòng, nhưng tiếng trống tuồng vẫn không một ngày ngưng nghỉ, anh chị em càng ra sức hát, diễn như để trả thù cho đồng đội của mình.
Bọn Mỹ ngụy bắn phá ác liệt, Đoàn phải tạm rút về hang Dũ Dĩ ở Lộc Đại xã Sơn Trung, phía Đông Nam chân núi Hòn Tàu. Địch lại đổ quân càn quét khắp vùng quanh Hòn Tàu. Gần trọn mùa hè 1969, Đoàn đành phải trụ ở hang đá ấy. Cùng ở đây, có đơn vị thanh niên xung phong "Hà Bắc" của Quảng Nam ở đó từ trước; mấy tuần sau thêm các đơn vị "91", "Lê Độ", bộ đội biệt động thành Đà Nẵng, các đồng chí quận ủy, quận đội quận I Đà Nẵng cũng lui về đây, rồi Đoàn văn công Đặc khu Quảng Đà do anh Vương Quế Hải làm trưởng đoàn, anh Hiến làm chính trị viên. Cả thung lũng nhỏ đông nghẹ người, mức độ phi pháo của địch ngày càng gia tăng ác liệt. Pháo bầy, bom tọa độ, rốc két, bom quét, bom napan, đạn bắn thẳng thi nhau trút xuống như muốn xé nát, nung trong lửa khói ngút trời vùng chân Hòn Tàu. Nhưng từ hầm chỉ huy của đoàn thanh niên xung phong "Hà Bắc" (*), tiếng hát, tiếng đàn vẫn ngân vang, như át tiếng bom đạn. Hai đoàn gặp nhau tay bắt mặt mừng, rồi đàn hát, biểu diễn cho nhau xem, tranh thủ phục vụ các đồng chí lãnh đạo, bộ đội và thanh niên xung phong đã làm xúc động cả người diễn lẫn người xem. Những tiết mục tuồng "Trần Quốc Toản ra quân", "Trưng Vương đề cờ", trích đoạn "Trần Bình Trọng trong ngục" của đoàn Tuồng và vở dân ca kịch "Bà mẹ Gò Nổi" của Phan Ngạn, bài hát "Tiếng đàn Ta Lư" của Huy Thục, tấu hài "Kể chuyện chống càn" - tiết mục tự biên của Đoàn văn công Quảng Đà, được diễn viên của hai đoàn biểu diễn say sưa, nhiệt tình, người xem cổ vũ nồng nhiệt. Chiến tranh như không có mặt ở đây trong những thời khắc ấy.
Cuối tháng 7 năm 1969, địch đánh rát vùng chân Hòn Tàu, Đoàn phải xoi đường rút về cánh nam. Cũng vào lúc này, hậu phương lớn miền Bắc chi viện một số diễn viên như: Cao Đình Cựu, Phạm Ngọc Sơn, Hoàng Xuân Nông, Các anh Lê Quang Ngạch, Phạm Văn Điền về khu chuẩn bị thành lập lại Đoàn Tuồng giải phóng khu Trung Trung bộ, riêng nghệ sĩ Tư Bửu sức khỏe yếu phải ra Bắc điều trị.
Trên đường về căn cứ, vừa đến Phương Đông thì nhận được chỉ thị của Ban Tuyên huấn tỉnh, mấy hôm sau theo đường giao liên Đoàn vào phục vụ Đại hội chiến sĩ thi đua tỉnh đội Quảng Nam. Chúng tôi đang háo hức chuẩn bị buổi biểu diễn thứ ba vở "Trần Quốc Toản ra quân" và đêm hôm sau sẽ được cùng xem phim tại Đại hội, thì chiều ngày 2/9/1969, qua Đài Tiếng nói Việt Nam nghe tin Bác Hồ ốm nặng. Cả khu Đại hội lặng đi, nỗi lo âu hiện rõ trên khuôn mặt từ các đồng chí lãnh đạo đến cán bộ, chiến sĩ. Các hoạt động nghệ thuật được dừng ngay đêm đó. Và ngày hôm sau, tin buồn đau đớn Bác Hồ đã ra đi! Trong đời chúng tôi, chưa có một cảnh đau buồn nào bằng khi nghe tin Bác Hồ mất. Một không khí đau thương bao trùm cả doanh trại và Đại hội chiến sĩ thi đua. Ban tổ chức cho lập bàn thờ ngay chiều hôm ấy. Trong nước mắt và trong mưa rừng, chúng tôi đi tìm và chia nhau từng mẫu vải nhỏ, tự may lấy băng tang. Tối hôm đó, chúng tôi tề tựu đông đủ trước bàn thờ Bác trong hội trường Đại hội để làm lễ để tang cho Bác. Trong tiếng nức nở, tiếc thương vô hạn. Sáng hôm sau, chúng tôi lặng lẽ trở về, lòng mang nặng niềm đau thương và nỗi lo âu không biết những ngày sắp tới chiến trường rồi sẽ ra sao...
Về Tiên Lãnh được ít lâu, thì Ban Tuyên huấn khu V yêu cầu tỉnh chi viện một bộ phận diễn viên phối hợp cùng các anh, Ngạch, Điền, Cựu, Sơn, Nông của khu biểu diễn phục vụ Hội nghị nổi dậy của khu ủy khu V tại căn cứ Nước Nẻ, Hội nghị của quân khu V và phục vụ một số đơn vị chung quanh khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu V. Đợt biểu diễn rất thành công được các đồng chí lãnh đạo khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu V khen ngợi. Trước khi trở về tỉnh, chúng tôi được Đại tướng Chu Huy Mân, Tư lệnh quân khu V đến thăm và tặng quà. Cử chỉ yêu thương chăm sóc ấy của Đại tướng đã làm tăng thêm sức mạnh cho những nghệ sĩ chiến sĩ chúng tôi. Cũng lúc này lãnh đạo Ban Tuyên huấn tỉnh Quảng Nam mời hai anh Lê Quang Ngạch và Phạm Văn Điền cùng xuống Quảng Nam tiếp tục giúp đoàn tuồng. Chúng tôi cõng ba lô đi trong tiếng bom gầm, đạn réo. Cái chết như luôn kề bên mình nhưng chẳng một ai lo sợ!
Đến Trà My, được chỉ thị phục vụ Hội nghị nổi dậy của tỉnh, họp tại căn cứ Nước Oa. Sau đó đoàn được lệnh ở lại, vì Tiên Lãnh đã bị địch lấn chiếm. Suốt mùa đông năm 1969, cả thầy và trò chúng tôi ăn đói, chịu rét, chủ yếu là lá sắn luộc chấm xì dầu, để dựng vở "Lam Sơn khởi nghĩa" của tác giả Tống Phước Phổ. Các diễn viên Minh Chừ tiếp tục thành công vai "Lê Lợi", Hoa Lý vai "Lê Lai", Hằng Nga vai "Nguyễn Trãi", Trung Nghi vai "Vương Thông", Ngọc Tiên vai" Liễu Thăng" - Đặc biệt cặp Bích Liên vai "Trinh Nương", Trần Văn Ngộ vai "Lê Thụ". Vở tuồng này diễn ở đâu cũng được khán giả hoan nghênh, khen ngợi. Chúng tôi thấy phấn khởi mà quên cả đói khát và hiểm nguy.
Đầu năm 1970, đoàn đi phục vụ ở Tam Kỳ, anh Ngạch, anh Điền được gọi về khu. Trên đường, anh Điền bị tai nạn hy sinh bên bờ sông Trường, lại thêm một mất mác đau thương nữa không lấy gì bù đắp nổi! Cùng thời gian này, Bộ Văn hóa chi viện thêm cho khu V một số diễn viên được đào tạo ở trường Nghệ thuật Trung ương là: Trần Hưng Quang, Nguyễn Thị Xuân Viên, Trần Đình Ân, Nguyễn Thị Nhường, Vũ Đức Ngoan. Đoàn Tuồng giải phóng Trung Trung bộ tăng lên được 10 người đủ sức tổ chức biểu diễn độc lập.
Giữa tháng 6 năm 1970, 14 anh chị em của Đoàn tuồng Giải phóng Quảng Nam được chọn gửi ra Bắc đào tạo để đảm bảo hoạt động lâu dài gồm: Xuân Diệu, Trung Nghi, Đình Sanh, Bích Liên, Ánh Minh, Hoa Lý, Hằng Nga, Thành Nguyên, Ngọc Tiên, Văn Ngộ, Văn Ngọc, Kim Dung, Văn Thạnh, Tấn Phùng. Đoàn vẫn mang tên "Đoàn Tuồng Giải phóng Quảng Nam" do Hồ Xuân Diệu làm trưởng đoàn, Trần Trung Nghi phó trưởng đoàn, Nguyễn Thị Hoa Lý chính trị viên kiêm Bí thư chi bộ. Sau hai tháng trời, đi bộ vượt Trường Sơn, đến ngày 12 tháng 8 năm 1970, đoàn tới Hà Nội và sau đó được đưa đi an dưỡng 3 tháng, rồi về trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam (nay là trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội) học tập. Về tổ chức nhân sự, chính sách, chế độ, do Cục đón tiếp cán bộ "B" Ban thống nhất Trung ương quản lý; về chuyên môn nghiệp vụ do Ban "B" Bộ Văn hóa chịu trách nhiệm. Trường nghệ thuật Sân khấu Việt Nam tổ chức riêng một lớp gọi là "lớp Tuồng B". Tại đây, đoàn được các nghệ sĩ bậc thầy như: Nguyễn Nho Túy, Ngô Thị Liễu, Nguyễn Lai, Văn Phước Khôi, Đinh Quả, Văn Bá Anh, Dương Long Căn, Hồ Hữu Có, Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Thị Minh Ân, tận tâm giảng dạy với tất cả tấm lòng vì miền Nam ruột thịt, vì quê hương thân yêu. Chúng tôi ra sức học tập để sớm trở về phục vụ quê hương.
Trong những ngày này, các đồng chí Nguyễn Doanh Nghiệp - K trưởng K15, Ban Thống nhất Trung ương, Nhà nghiên cứu Hoàng Châu Ký, soạn giả Nguyễn Văn Bằng, đồng chí Lưu Trường Giang, tuy không thường xuyên, nhưng mỗi người, với thời gian, mức độ khác nhau đều góp phần quan trọng về giảng dạy và xây dựng Đoàn.
Đầu năm 1972, Ban thống nhất Trung ương và Bộ Văn hóa thống nhất quyết định chuyển Đoàn Tuồng Giải phóng Quảng Nam, thành Đoàn Tuồng giải phóng khu V, cho phép tuyển sinh, nới rộng biên chế, đầu tư trang bị để xây dạng thành một đoàn Tuồng mạnh cho cả khu. Cái tên Đoàn Tuồng khu VB bắt đầu có từ đấy.
Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1972, hơn hai thi học sinh từ các trường phổ thông cấp II, cấp III ở tỉnh Thanh Hóa và Hà Nội được tuyển chọn, khẩn trương đào tạo để bổ sung xây dựng đoàn. Tháng 10 năm 1972, Đoàn tiếp nhận 12 diễn viên, đa phần tốt nghiệp loại giỏi tại khoa Tuồng, trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam khóa 1969 - 1972 gồm: NguyễnThị Thu Nhân, Phan Thị Lan Phương, Phan Thị Thanh Ba, Phạm Thanh Tỵ, Hoàng Xuân Nam, Lê Khắc Thành, Lê Đình Sơn, Nguyễn Đức Tý, Hoàng Thái Hóa, Hoàng Hoa Liên, Trần Thị Minh Trình, Đường Thăng Long. Đoàn Tuồng Thanh Quảng, tỉnh Thanh Hóa cũng chi viện thêm 04 diễn viên: Tống Thị Phương Cơ, Lưu Trung Tùng, Lê Bá Tảo, Trịnh Quang Quyền. Nghệ sĩ Tư Bửu được Cục đón tiếp cán bộ "B" điều về trực tiếp quản lý đoàn; và đồng chí Phan Tân từ đoàn tuồng khu V về bổ sung cho lãnh đạo đoàn. Lúc này, Mỹ leo thang đánh phá ác liệt miền Bắc, Đoàn phải đi sơ tán nhiều nơi: Hà Tây, Vĩnh Phú, Hòa Bình, tuy vất vả, nhưng việc học tập văn hóa, chuyên môn vẫn khẩn trương đều đặn.
Hiệp định Paris được ký kết, tháng 3 năm 1973, đoàn trở về lại trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam. Từ đây, việc giảng dạy và học tập được tổ chức quy cũ, chặt chẽ hơn, vì chiến tranh phá hoại của Mỹ tạm lắng.
Đầu năm 1974, việc học tập của Đoàn ở Hà Nội bước vào giai đoạn cuối. Việc chuẩn bị trang thiết bị được tiến hành bí mật, nhưng khẩn trương. Ban thống nhất Trung ương đã chuẩn chi 150.000 đồng để trang bị mới (giá trị của đồng bạc lúc này là 4 hào 1 kg gạo). Hàng loạt vở diễn mới như: "Nghêu - Sò - Ốc - Hến, Trưng Nữ Vương, Những người con" ra đời. Vở "Trần Bình Trọng" được dàn dựng lại và nâng cao. Cùng với các vở cổ: "Sơn Hậu, Ngọn lửa Hồng Sơn" dàn dựng từ trước, đoàn đã có 6 vở hoàn chỉnh, đảm bảo 6 đêm diễn liên tục. Trần Đình Sanh, Bùi Thị Bích Liên tốt nghiệp loại xuất sắc, các diễn viên khác cùng lớp đều tốt nghiệp giỏi và khá. Các anh chị biểu diễn thành công hàng loạt vai diễn, như: Đình Sanh vai "Trần Bình Trọng, Đổng Kim Lân, Triệu Tư Cung, Quan Tri Huyện", Bích Liên vai "Phương Cơ, Trưng Trắc, Vợ Quan Huyện"; Xuân Diệu vai "Tạ Ngọc Lân, Linh Tá, Trần Lộng", Thu Nhân vai "Vợ Quan Huyện, Ái Nương, Trưng Trắc", Khắc Thành vai "Tạ Ôn Đình, Đại Lang, Lý Trưởng", Trọng Diệp vai "Ô Mã Nhi", Đức Dũng vai "Thoát Hoan, Trùm Sò", Tứ Hải vai "Thầy Nghêu", Đình Sơn vai "Thầy Đề", Xuân Hoàng vai "Linh Tá", Kim Oanh vai "Trần Quốc Toản", Văn Mợi vai "Lý Hằng, Trần Lộng" v.v...
Cuối tháng 3 năm 1974, Ban Tuyên huấn khu V chỉ thị cho toàn Đoàn chuẩn bị vào lại chiến trường trước mùa mưa. Bộ Văn hóa cử đồng chí Ngô Minh Hòa làm Trưởng đoàn, điều động nghệ sĩ Hồ Hữu Có từ trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam về làm Phó đoàn, rút cán bộ hành chính Ngô Ngọc Quang, cán bộ nghiên cứu Phạm Xuân Hồng của Đoàn Tuồng Liên khu V tăng cường cho Đoàn.
Ba buổi biểu diễn để tạm biệt các đồng chí lãnh đạo, nhân dân thủ đô, tổ chức vào dịp chào mừng ngày Quốc tế lao động 1-5-1974, tại Hội trường Tỉnh ủy Hà Tây, nơi đoàn được cưu mang từ ngày đầu ra Bắc, có đông đủ lãnh đạo Ban Thống nhất Trung ương, Bộ Văn hóa, các đồng chí trong Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Ủy ban hành chính Hà Tây, đồng bào thủ đô và thị xã Hà Đông; đặc biệt là sự có mặt dự xem và chứng kiến từ đầu của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Cộng hòa miền Nam Việt Nam Lưu Hữu Phước. Với hai vở “Trần Bình Trọng và Nghêu - Sò - Ốc - Hến" qua 3 đêm diễn thành công rực rỡ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người xem và với đoàn về tình cảm Bắc Nam ruột thịt.
Cuối tháng 5 năm 1974, sau một thời gian ngắn học tập chính trị, bồi dưỡng thể lực và luyện tập gùi công, hành quân (chủ yếu cho số anh chị em mới đi chiến trường lần đầu) tại trường nghiệp vụ 105 Hà Nội, đoàn lên đường vào chiến trường "B", do nghệ sĩ Hồ Hữu Có - quyền Trưởng đoàn. Đi tàu từ ga Thường Tín đến Vịnh thì đi ô tô, cứ cách trạm nghỉ chừng 9 - 10 km thì xe dừng cho đoàn hành quân bộ về trạm và hôm sau phải đi bộ chừng 9 - 10 cây số mới lên xe đi tiếp. Hình như các binh trạm muốn nhắc nhở chúng tôi đừng quên làm quen với đi bộ.
Qua hơn một tuần hành quân liên tục, chiều ngày 8 tháng 6 năm 1974, Đoàn về đến ngầm Nước Mỹ, thì gặp bộ phận đón tiếp của Ban Tuyên huấn khu V do nghệ sĩ Tư Bửu phụ trách, đang chờ chúng tôi. Tình hình thay đổi quá nhanh so với hồi đoàn đi ra Bắc, phải mất hai tháng ròng.
Về tới chiến trường xưa, Đoàn gặp Đoàn của anh Trần Hưng Quang vừa đi biểu diễn ở Bình Định về, nhưng hai anh Cao Đình Cựu và anh Trần Đình Ân đã hy sinh trước đó. Như vậy, ngoài những người bị giặc bắt giam cầm trong các nhà lao của Mỹ ngụy vừa mới được trao trả theo tinh thần hiệp định Paris hồi cuối năm 1973, như các anh Nguyễn Kim Hùng, Võ Sĩ Thừa, Phạm Hữu Thành, Lưu Hạnh v.v... kể cả trưởng đoàn cũ của chúng tôi là Hoàng Minh Hiệp, đã có 6 người con ưu tú của gia đình tuồng ngã xuống trên đất này. Sự hy sinh tổn thất không nhỏ của những người nghệ sĩ Tuồng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, càng khắc ghi trong tâm khảm chúng tôi và nhân dân thật khó phai mờ.
Lúc này vùng giải phóng liên tục mở rộng nên nhu cầu phát triển và thưởng thức văn hóa nghệ thuật rất lớn. Khu ủy lại quyết định thành lập trường Nghệ thuật khu V và giải thể Đoàn Tuồng Giải phóng Trung Trung bộ, anh Trần Hưng Quang cùng một số diễn viên chuyển sang trường làm công tác đào tạo. Một số diễn viên và nhân viên gồm: Phạm Ngọc Sơn, Hoàng Xuân Nông, Vũ Mạnh Hán, Lưu Trung Tùng, Trịnh Quang Quyền, Lê Bá Tảo, Cao Đình Lưu, Lê Thị Công sát nhập với Đoàn Tuồng Liên khu V"B" trực thuộc Ban Tuyên huấn khu V do anh Lê Quang Ngạch làm trưởng đoàn, anh Hồ Hữu Có làm phó trưởng đoàn. Địa bàn hoạt động của đoàn là suốt chiến trường miền Trung. Các vở diễn "Trần Bình Trọng, Trưng Nữ Vương, Ngọn Lửa Hồng Sơn, Nghêu Sò Ốc Hến, Trần Quốc Toản ra quân, Sư già và em bé" liên tục xuất hiện trên sân khấu dã chiến. Đi tới đâu, tập thể nghệ sĩ, diễn viên của đoàn tuồng khu V"B" cũng đem lại niềm vui đầy hứng khởi cho đông đảo cán bộ chiến sĩ và nhân dân, và được chào đón nồng nhiệt.
Ngày 29- 3 - 1975, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được hoàn toàn giải phóng. Từ Trà My đoàn xuống biểu diễn ở huyện Tiên Phước, thị xã Tam Kỳ, thị xã Hội An, quay lại thị xã Tam Kỳ, rồi đến tỉnh Quảng Ngãi, Bình Đình, Phú Yên, Khánh Hòa, theo sát bước chân anh bộ đội giải phóng cho đến hết chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đoàn mới trở về Đà Nẵng, kết thúc một hành trình học tập, đi và diễn kéo dài suốt bảy tám năm ròng.
NHỮNG THÁNG NĂM HÒA BÌNH VÀ PHÁT TRIỂN
Năm 1976, cấp khu giải thể, Đoàn được giao về cho Quảng Nam - Đà Nẵng, sát nhập thêm một số nghệ sĩ giỏi và diễn viên trẻ của Đoàn Tuồng Phương Nam, (một đoàn tập thể, do nghệ sĩ Tư Bửu và Lê Thử tổ chức và lãnh đạo từ sau ngày giải phóng), lấy tên là Đoàn Nghệ thuật Tuồng Quảng Nam - Đà Nẵng, vẫn do anh Lê Quang Ngạch làm trưởng đoàn, nghệ sĩ Hồ Hữu Có làm phó đoàn. Đội ngũ nghệ sĩ gồm: Thế hệ bậc thầy đã từng chỉ đạo nghệ thuật, đào tạo diễn viên như nghệ sĩ Đội Tảo (Nguyễn Nho Túy), Chánh Phẩm (Nguyễn Phẩm), Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu, về sau có thêm nghệ sĩ Văn Phước Khôi, và soạn giả Tống Phước Phổ. Thế hệ tiếp theo có các nghệ sĩ Trần Ngọc Tư (Tư Bửu), Trần Tùng, Lê Thử (Bảy Thử), Nguyễn Thể (Quang Diện), Nguyễn Thị Liễu. Thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ có Đình Sanh, Bích Liên, Thu Nhân, Lan Phương, Xuân Diệu, Hằng Nga, Khắc Thành, Hoa Liên, Thanh Ty, Đức Tý, Đức Dũng, Văn Ngộ, Hữu Hùng, tham gia sau giải phóng có Phương Lan, Nguyễn Thảo, Tô Hội, Nguyễn Ninh v.v... Và thế hệ mới đào tạo có Kim Hà, Thúy Hằng, Thiên Hương, Quốc Quyền, Văn Thanh, Văn Kỳ, Bá Huỳnh, Thanh Hà. Đoàn trực thuộc Ty Văn hóa Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng.
XÂY DỰNG TIẾT MỤC MỚI VÀ PHỤC HỒI VỐN CỔ
Năm 1977, vở "Thanh gươm chủ chiến”, viết về một giai đoạn lịch sử của quê hương Quảng Nam với nhân vật trung tâm là "Ông Ích Khiêm" của tập thể các tác giả: Hoàng Châu Ký, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Bằng, Võ Bá Huân, do Giáo sư Hoàng Châu Ký đạo diễn, âm nhạc Nguyễn Viết, Họa sĩ Nguyễn Hồng - được dàn dựng thành công, tạo được ấn tượng tốt tại Liên hoan các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp miền Trung (tổ chức tại Quy Nhơn), đã thực sự chinh phục được những người yêu tuồng.
Năm 1978, 1979, đoàn lần lượt công diễn các vở truyền thống và lịch sử như: "Thạch Sanh - Lý Thông, Nghêu Sò Ốc Hến, Đào Tam Xuân loạn trào, Trần Bình Trọng, Trưng Nữ Vương, Đào Phi Phụng, Trần Quốc Toản". Sự xuất hiện của các nghệ sĩ tên tuổi như Tư Bửu, Thanh Tùng, Bảy Thử, Quang Diện, Thanh Tâm, Thúy Liễu, cùng với lớp nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến như: Đình Sanh, Bích Liên, Thu Nhân, Lan Phương, Xuân Diệu, Đức Dũng, Quang Quyền đã tạo cho Đoàn sắc diện mới, thu hút được đông đảo khán giả. Tên tuổi của đoàn Tuồng QN-ĐN càng được yêu mến và vang xa hơn trong cả nước.
Đầu năm 1979, nghệ sĩ Hồ Hữu Có được điều động sang làm Phó hiệu trưởng trường Lý luận Nghiệp vụ văn hóa tỉnh, nghệ sĩ Chu Thị Minh Thịnh được đề bạc làm Phó trưởng đoàn kiêm Bí thư chi bộ, Trưởng đoàn là Nghệ sĩ Lê Quang Ngạch.
Mùa thu năm 1980, vở "Mỵ Châu - Trọng Thủy", kịch bản của tác giả Kính Dân, đạo diễn Ngọc Phương, họa sĩ Nguyễn Hồng, âm nhạc Đàm Linh, biên đạo múa Xuân Định được dàn dựng thành công. Bên cạnh các diễn viên trẻ đã được khẳng định như: Đình Sanh, Thu Nhân, Hoa Liên, Quang Quyền, sự tham gia của các nghệ sĩ có uy tín lớn về nghệ thuật như Tư Bửu, Bảy Thử, Thanh Tùng, Thúy Liễu đã làm cho vở diễn thật sự thu hút đông đảo khán giả bằng những cách tân nghệ thuật nghiêm túc, rất đáng trân trọng, thể hiện trách nhiệm và tâm huyết của ê kíp dựng vở đối với Tuồng Quảng Nam Đà Nẵng.
Đầu năm 1981, đoàn tổ chức đợt biểu diễn dài ngày các tỉnh miền Trung, từ Huế, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Vinh, Nghệ An. Qua gần 4 tháng, đến đâu đoàn cũng được đón tiếp nồng hậu và hoan nghênh nhiệt liệt. Các vở "Thạch Sanh, My Châu Trọng Thủy, Đào Tam Xuân, Đào Phi Phụng, Trần Bình Trọng, Nghêu Sò Ốc Hến" luôn thu hút đông đảo khán giả, điểm dừng chân nào cũng diễn từ 3 đến 5 tối. Thời giá lúc ấy, vé bán đồng hạng 3 hào, 2 hào, có hôm thu đến 3500 - 3600đ/đêm diễn. Có đêm ở Nhà hát Nhân dân Hoa Thành, 28 huyện Yên Thành, Nghệ An, khán giả vào chật ních sân bãi, phải dừng bán vé vào cổng. Thật là những năm tháng hoàng kim của nghệ thuật Tuồng nói chung và tuồng QN - ĐN nói riêng.
Đầu năm 1982, Sở Văn hóa Thông tin điều động đồng chí Chu Thị Minh Thịnh về làm Trưởng đoàn Cải lương Sông Hàn, bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Minh Ánh làm Phó trưởng đoàn, phụ trách chính trị.
Vấn đề được đặt ra trong thời gian này là tích cực tuyển sinh đào tạo diễn viên trẻ, tổ chức tập huấn để có diễn viên thay thế cho các nghệ sĩ cao tuổi sẽ lần lượt lượt về hưu. Ngay tại đoàn mở lớp đào tạo dài hạn và các lớp tập huấn ngắn hạn, nâng cao tay nghề cho diễn viên được mở liên tục. Một loạt vở diễn mới ra đời: "Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga" của tác giả Tống Phước Phổ, "Mối tình qua tết Li Boong" kịch bản của Phạm Kim Anh, Tống Phước Phổ chuyển thể, "Lộ Địch dâng gươm" kịch bản của Ưng Bình Thúc Dạ Thị. "Đêm hội Long Trì" kịch bản của Dũng Hiệp, "Công Chúa Tô Lan" "Thị Kính – Thị Màu của Hoài Giao, Tống Phước Phổ chuyển thể, Thị Mầu" của Hoàng Châu Ký chuyển thể từ "Quan Âm Thị Kính", "Nguyên Duy Hiệu" của Hoàng Châu Ký... Một loạt vớ tuồng cổ điển mẫu mực như: "Diễn Võ Đình, E Sanh Đàng, Dương Chấn Tử, Đào Phi Phụng, L Phụng Đình..." được khai thác, dựng lại, tập luyện nhằm nâng cao tay nghề cho đội ngũ diễn viên trẻ với sự tham gia giảng dạy, chỉ đạo tận
tình của các nghệ sĩ bậc thầy như NSND Chánh Phẩm, NSND Nguyễn Lai, NSND Ngô Thị Liễu, Giáo sư Hoàng Châu Ký, các NSUT Văn Phước Khôi, NSƯT Trần Ngọc Tư (Tư Bửu). Đội ngũ diễn viên trẻ đã vươn lên mạnh mẽ, trưởng thành vượt bậc trở thành một đơn vị biểu diễn sung sức.
Tháng 5 năm 1982, tại Hội thi Tiếng hát sân khấu hay toàn quốc lần thứ nhất đợt I tổ chức ở Quy Nhơn, 02 diễn viên của đoàn đạt giải A, 04 diễn viên đạt giải B, đã khẳng định sự tiến bộ của đội ngũ diễn viên.
Song song với các hoạt động nghiệp vụ, Đoàn đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo diễn viên không chuyên, bảo trợ cho các đội tuồng ở các xã, huyện, như đội tuồng xã Đại Hiệp huyện Đại Lộc, tám đội tuồng cho các xã thuộc huyện Điện Bàn, đồng thời cử nghệ sĩ tỏa đi địa phương hướng dẫn các đợt hội diễn quần chúng ở huyện Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Tam Kỳ... Tạo ra một không khí sinh hoạt hát bội sôi nổi trong toàn tỉnh. Có thể nói Đoàn Tuồng Quảng Nam Đà Nẵng trở thành một trung tâm nghệ thuật tuồng có uy tín không những có đội ngũ diễn viên tài năng qua nhiều thế hệ, mà còn có nhiều tiết mục hay lại thâm nhập cơ sở, giảng dạy, hướng dẫn, định hướng cho phong trào có hiệu quả lớn.
Tháng 7 năm 1985, vở "Nguyễn Duy Hiệu" của tác giả Hoàng Châu Ký được tặng Huy chương bạc tại Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, tổ chức tại Quy Nhơn, Bình Định. Vở diễn đã gây được ấn tượng tốt, về sự thí nghiệm đưa tuồng vào đề tài lịch sử cận đại. 1 ầu năm 1985, anh Nguyễn Minh Ảnh được b3nhiệm Trưởng đoàn thay anh Lê Quang Ngành, sau đó anh Trần Thập được điều về làm Trung đoàn từ tháng 6 năm 1986, cùng với anh Hồ Xuân Diệu làm Phó đoàn. Và tháng 9 năm 1986. NS Trần Đình Sanh được đề bạt Phó trưởng đoàn, phụ trách chuyên môn.
Đầu năm 1987, nhân chuẩn bị kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng mười Nga, đoàn dàn dựng vở "Lời phán truyền của các vì sao" kịch bản An-tai-ma-Mê-đốp, do tác giả Kính Dân chuyển thể, Hoàng Quang Thiện đạo diễn. Một công trình nghệ thuật có ý nghĩa, nhưng rất tiếc do cách làm nên kết quả không đạt được như mong muốn! Cũng năm ấy (1987), Đoàn được Đại sứ quán Cộng hòa Pháp tại Việt Nam tài trợ 3.500 USD để dàn dựng vở "Lơ-xít" của PIE-COÓCNÂY. Giáo sư Hoàng Châu Ký chuyển thể tuồng từ nguyên tác, đạo diễn Pháp Jăng-cơ-Lốt-buốt- bôn trực tiếp dàn dựng.
Tháng 8 năm 1987, chuyến đi biểu diễn ở thủ đô Hà Nội và tỉnh Hà Tây, nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Đoàn và chào mừng 70 năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Lại một lần nữa các vở diễn như: "Lý Thân và Công chúa Nhà Tần", "Mối tình qua tết Ly-Boong", "Hoàng Hôn Đen", "Lục Vân Tiên", "Lơ-xít"... chinh phục đông đảo người xem thủ đô và các địa phương thuộc tỉnh Hà Tây. Cuối năm 1987, Đoàn về Đà Nẵng, tổ chức kỷ niệm 20 năm ngày thành lập trong bối cảnh hết sức khó khăn về nhiều mặt.
Đầu năm 1988, nghệ sĩ Trần Đình Sanh được bổ nhiệm quyền Trưởng đoàn, và đến đầu năm 1989 là Trưởng đoàn, thay đồng chí Trần Thập. Đây là thời kỳ tập trung khắc phục những tồn tại hạn chế trước đó để đưa đoàn vươn lên. Nhờ sự quan tâm chăm sóc của các cấp lãnh đạo, cộng với sự đoàn kết nhất trí và quyết tâm của toàn đoàn, khó khăn từng bước được tháo gỡ, mọi hoạt động của đoàn ổn định dần để bước sang một trang mới.
Năm 1990, vở "Mỵ Châu - Trọng Thủy" được dàn dựng lại, lực lượng diễn viên trẻ đảm nhận các vai chính. Tháng 9 năm ấy, tại Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc tổ chức ở Nha Trang vở "My Châu Trọng Thủy" đạt giải thưởng cao, các diễn viên Đình Sanh, Thu Nhân, Tô Hội, Nguyễn Thảo, Đức Dũng được tặng Huy chương Vàng với các vai "An Dương Vương, My Châu, Cao Thông, Triệu Đà, Triệu Xung"; Văn Thanh, Phương Lan Huy chương Bạc với vai "Ma Dẫn" và tiếng hát hậu trường hay nhất tại kỳ Hội diễn này.
Đầu năm 1992, Hội thi diễn tấu nhạc cụ sân khấu dân tộc toàn quốc đợt I tổ chức tại Đà Nẵng, đoàn cử 7 diễn viên nhạc tham gia, đã giành 01 Huy chương Vàng với số điểm cao nhất, và 04 giải Bạc, 01 Đồng và 01 Khuyến khích.
Tháng 11 năm 1992, 03 diễn viên của đoàn tham gia Hội thi tiếng hát sân khấu hay toàn quốc tại Hải Dương, 02 diễn viên đoạt Huy chương Vàng, 01 huy chương Bạc. Phương Lan đã đạt giải Vàng với số điểm cao nhất, được bầu là giọng hát tuồng hay nhất toàn quốc năm 1992. Những kết quả ấy chứng tỏ tiềm năng nghệ thuật của đoàn tuồng Quảng Nam Đà Nẵng có triển vọng và phong phú.
Hai công tác lớn được Đoàn đặc biệt quan tâm là đào tạo lực lượng diễn viên trẻ và khai thác tập huấn dàn dựng lại một số vở tuồng cổ và các trích đoạn mẫu mực. Kết quả, hai lớp diễn viên trung cấp dài hạn phối hợp với trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật tỉnh về tuyển sinh và đào tạo, sau tốt nghiệp được bổ sung vê đơn vị với tay nghề khá vững vàng. Bốn vở diễn cổ điển và hơn 30 trích đoạn mẫu mực đã được khai thác, nâng cao, dàn dựng lại và quay thành phim để lưu giữ và phát rộng rãi trên sóng truyền hình cả nước. Cũng trong thời gian này, lãnh đạo tỉnh có một quyết định quan trọng đối với ngành Tuồng Quảng Nam - Đà Nẵng đó là việc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, đánh dấu một bước phát triển mới, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân cũng như các thế hệ nghệ sĩ, diễn viên đất Quảng.
Ngày 03 tháng 6 năm 1992, đồng chí Lê Quốc Khánh, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy làm việc với Giáo sư Hoàng Châu Ký và các đồng chí Phạm Đức Nam, Võ Bá Huân, Lê Đình Siêu, Lê Phát trong Hội Bảo trợ Nghệ thuật Tuồng, đồng chí Phạm Phát, ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; đồng chí Hồ Hải Học, Giám đốc, đồng chí Hoàng Hương Việt - Phó giám đốc Sở Văn hóa-Thông tin-Thể thao và các đồng chí lãnh đạo Văn phòng Tỉnh ủy, Văn phòng UBND tỉnh... đã quyết định: Cần nhanh chóng xúc tiến việc xây dựng Nhà hát Tuồng của Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, mang tên "Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh" để làm đầu mối tập trung quản lý, tạo điều kiện bảo tồn, giữ gìn, phục hồi và phát triển nghệ thuật Tuồng. Tổ chức bộ máy của Nhà hát Tuồng phải tinh gọn, hoạt động phải cụ thể, thiết thực, đạt hiệu quả cao.
Căn cứ thông báo kết luận của Thường trực Tỉnh ủy tại văn bản số: 28/TB-TU ngày 16 tháng 6 năm 1992; Xét đề nghị của Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao, Trưởng ban Tổ chức chính quyền tỉnh, ngày 11 tháng 11 năm 1992, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ra quyết định số 3184/QĐ-UB thành lập Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh thuộc Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao.
Ngày 18 tháng 6 năm 1993, Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Quảng Nam Đà Nẵng ra thông báo số 93/TB-VHTT-TT sát nhập Ban nghiên cứu Tuồng thuộc Sở về Nhà hát tuồng mang tên Nguyễn Hiển Dĩnh. Trước đó, ngày 22 tháng 4 năm 1993 có quyết định số 92/QĐ- VHTT-TT bổ nhiệm anh Lê Văn Phú, Đội trưởng đội kiểm tra Văn hóa tỉnh giữ chức vụ Phó giám đốc Nhà hát để hoàn thiện bộ phận lãnh đạo...
Và dồn nén niềm vui trong bao ngày chờ đợi đã đến. Vào hồi 14h ngày 28 tháng 6 năm 1993, tại Trung tâm Văn hóa - Thông tin tỉnh (số 84 Hùng Vương - Đà Nẵng) trong buổi lễ chào mừng các Nghệ sĩ ưu tú của tỉnh vừa được Nhà nước phong tặng danh hiệu, trước sự chứng kiến của đồng chí Nguyễn Văn Chi, ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng; đồng chí Nguyễn Đình An, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, các giáo sư, nghệ sĩ, đạo diễn, các cơ quan thông tấn báo chí của Trung ương và địa phương, Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Hồ Hải Học công Quảng Nam bố quyết định thành lập Nhà hát Tuồng tỉnh Đà Nẵng mang tên "Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh" và giao nhiệm vụ cho Nghệ sĩ ưu tú Trần Đình Sanh, quyền Giám đốc Nhà hát, lãnh đạo triển khai phương án xây dựng Nhà hát. Đó là một quyết định mang tính lịch sử và là bước ngoặc đánh dấu sự phát triển của sự nghiệp Tuồng đất Quảng bước vào một thời kỳ mới, Nhà hát tiếp tục hoạt động với một khí thế mới.
Tại Liên hoan các trích đoạn Tuồng, Chèo hay chuyên nghiệp toàn quốc, tổ chức ở thành phố Huế tháng 8 năm 1993, chương trình dự thi của Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh thành công lớn với 05 Huy chương vàng, 02 Huy chương bạc. Tháng 11 năm 1995, vở "Lịch sử hãy phán xét" của Nhà hát tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1995, được trao tặng Huy chương Vàng tiết mục, cùng 04 Huy chương Vàng và 05 Huy chương Bạc cho 09 diễn viên.
Tháng 6 năm 1998, Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh lên đường tham dự Liên hoan nghệ thuật FERINGER - SINGAPOGE 1998. Chương trình biểu diễn của Nhà hát được đông đảo khán giả nước bạn hoan nghênh và Ủy ban nghệ thuật quốc gia SINGAPORE đánh giá cao.
Tại Hội thi tài năng trẻ sân khấu toàn quốc tổ chức tại Đà Nẵng tháng 8 năm 1998, những thí sinh của Nhà hát đạt 01 giải nhất, 01 giải nhì, 01 giải ba. Định hướng trẻ hóa đội ngũ diễn viên mà Nhà hát đã kiên trì thực hiện từ nhiều năm qua, đủ khả năng tiếp nhận sự chuyển giao của các nghệ sĩ đi trước, để nghệ thuật tuồng truyền thống lại tiếp tục dòng chảy của nó trong tương lai.
* NGHIÊN CỨU, THỂ NGHIỆM VÀ TUYÊN TRUYỀN GIÁO DỤC THẨM MỸ
Do nhận thức được, một trong những chức năng và nhiệm vụ của một Nhà hát là nghiên cứu thể nghiệm bằng nhiều hình thức, cụ thể là hình thức nghiên cứu học tập thân thế và sự nghiệp doanh nhân Nguyễn Hiển Dĩnh. Như vậy, sau hát Tuồng Đào Tấn, chưa có đơn vị Tuồng trong cả nước tập trung nghiên cứu sâu về Nguyễn Hiển Dĩnh như ở đây đã làm. Đồng chí Nguyễn Khoa Điềm lúc còn là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin đã có lần nói: "Nhờ có nghiên cứu, có tổ chức hội thảo và tuyên truyền thì người ta mới biết được tên tuổi và tài năng của Nguyễn Hiển Dĩnh".
Việc sưu tầm và phục hồi những đặc trưng giá trị nghệ thuật Tuồng truyền thống cũng được quan tâm như đầu tư và hỗ trợ cho Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Vĩnh Huế phục chế lại hệ thống mặt nạ Tuồng. Đến nay đã có hơn 100 mặt nạ nhân vật Tuồng truyền thống được đắp nổi và kẻ vẽ công phu, chi tiết, không những phục vụ cho ngành Tuồng trong địa phương (QNĐN) mà còn cho cả nước tham khảo, học tập, tránh được lối hóa trang tùy tiện, tam sao thất bổn. Nhà hát cũng góp phần hỗ trợ để Giáo sư Hoàng Chương hoàn thành và xuất bản cuốn sách "Tống Phước Phổ - Cây đại thụ Tuồng" được dư luận hoan nghênh. Trong dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Nhà hát có tổ chức tọa đàm và kỷ niệm 35 năm, tiếp tục cuộc tọa đàm công phu hơn, nhưng chưa tương xứng. Nếu có điều kiện thì tổ chức tổng kết học thuật về các vở Tuồng thành công hoặc chưa thành công. Không có lý luận thực tiễn học thuật soi đường thì khác nào người đi đêm không có ánh đèn chiếu sáng, điều đó có thể thấy ở các vở thế nghiệm đề tài nước ngoài như: "Lecid, Lời phán truyền của các vì sao" v.v...
Một ưu điểm của Nhà hát là coi trọng việc tuyên truyền giáo dục thẩm mỹ cho công chúng, nhất là khán giả trẻ hiểu được cái hay, cái đẹp của nghệ thuật Tuồng truyền thống qua màn ảnh nhỏ và qua những buổi biểu diễn có minh họa, giải thích tỉ mỉ về đặc trưng nghệ thuật Tuồng.
Từ Đoàn tuồng Giải phóng Quảng Nam đến Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh Đà Nẵng, là cuộc hành trình trên một phần ba thế kỷ trong vô vàn biến động trên đất nước, khốc liệt nhất là cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trong suốt 20 năm ròng.
Đoàn tuồng sinh ra và lớn lên từng ngày trong bối cảnh và môi trường nước sôi, lửa bỏng của bom rơi, đạn nổ, chất độc hóa học, cũng như sự tàn phá điên cuồng miền Bắc xã hội chủ nghĩa của giặc Mỹ xâm lược. Trong gian khổ ác liệt, tưởng như không vượt qua nổi, nhưng nhân dân hai miền Nam, Bắc đã anh dũng đánh thắng cuộc chiến tranh phi nghĩa do Mỹ ngụy gây ra cho đến ngày toàn thắng, và nghệ thuật tuồng luôn được cả nước cưu mang.
So với không gian và thời gian lịch sử thì không dài, nhưng với tuổi đời 40 năm của một đoàn nghệ thuật, tuy còn non trẻ, nhưng Đoàn đã từ chập chững những bước đi cho đến lúc trưởng thành, là một quá trình trăn trở, phấn đấu thử thách, chắt lọc, ươm mầm trong thăng trầm, buồn vui của nghề nghiệp, thật là sự nghiệp không nhỏ. Hôm nay, có thể nhìn lại mà không hổ thẹn với cha ông, với tổ nghiệp, với nhân dân đất Quảng, với cả nước và bạn bè gần xa.
Từ Đoàn Tuồng giải phóng Quảng Nam đến Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, như một trang "biên niên sử" thu nhỏ, mà ở đó những cán bộ, nghệ sĩ, diễn viên của Đoàn qua các thời kỳ, có người đã qua đời, hoặc nằm lại ở chiến trường, hay đã trở về với cuộc sống đời thường và những người đang sống với nghề, là cả một thế hệ diễn viên, đạo diễn, sáng tác, dạy nghề, kể cả những người say mê Tuồng, đã có cái may mắn là sinh ra và lớn lên trong chiếc nôi của đất Tuồng Quảng Nam - Đà Nẵng, cái nền của sân khấu hát tuồng truyền thống, trong dòng chảy của nghệ thuật dân tộc là cả một dấu ấn sâu sắc khó quên. Đoàn đã thừa hưởng một tài sản vô giá, không chỉ qua các vở diễn hoành tráng, bi hùng, mà được truyền dạy từ các bậc thầy những đường nét, làn điệu, vũ đạo, âm nhạc điêu luyện, để bảo tồn và phát huy vốn Tuồng độc đáo, một trong ba bộ môn nghệ thuật tiêu biểu của Việt Nam.
Cùng với thời gian, Đoàn tuồng Giải phóng Quảng Nam đã xuôi ngược mọi miền đất nước, từ trong chiến tranh cho đến năm tháng hòa bình, qua hàng trăm vở diễn và trích đoạn tuồng cổ mẫu mực, đã được Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu cao quý và tặng thưởng những tấm Huy chương Vàng, Bạc cho tiết mục và cho diễn viên, đó là sự đánh giá trận trọng của các cấp lãnh đạo và nhân dân.
Ngày nay, một đội ngũ diễn viên trẻ, thế hệ thứ tư, nối bước cha anh trong ngành Tuồng, được sống trong ngôi nhà đầm ấm: Nhà Hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh giữa lòng trung tâm thành phố Đà Nẵng cổ kính và hiện đại. Đêm đêm sân khấu vẫn đỏ đèn, tiếng trống chầu vẫn giục giả, lời ca tiếng hát vẫn vút cao. Khán giả xem tuồng ít hay nhiều chỉ là vấn đề của thời gian, còn trong tâm thức của nhân dân, của lớp trẻ ở mãnh đất Tuồng Đà Nẵng - Quảng Nam, của miền Trung này vẫn hiện diện như một dấu ấn văn hóa vốn có từ mấy thế kỷ nay, sẽ mãi mãi tồn tại và phát triển.
Bước sang thiên niên kỷ mới của thế kỷ 21, từ cái nền, cái vốn chắt chiu có được, cùng với đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, trong công cuộc "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" soi đường, và sự lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm đầu tư của chính quyền thành phố, sự giúp đỡ, dìu dắt của các cấp, các ngành, nhất định Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh sẽ tiếp tục con đường sự nghiệp của mình, như 40 năm qua đã đi và đã đến, mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp hơn bao giờ hết.
Đà Nẵng, tháng 10 năm 2007 - NSND Trần Đình Sanh
