Nhớ lại cách đây 35 năm sự phát triển của Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh - (Bài viết của Trung tướng Nguyễn Huy Chương)
Cứ mỗi lần có dịp đặt chân đến 155 Phan Châu Trinh thành phố Đà Nẵng, trong lòng tôi lại rạo rực một cảm giác bồi hồi, xúc động xen lẫn niềm tự hào đối với quê hương Đà Nẵng - Quảng Nam. Đó là một Nhà hát mang tên nhà hoạt động tuồng lỗi lạc của quê hương xứ Quảng - Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh khang trang tọa lạc giữa trung tâm thành phố.
Tôi vốn là người say mê xem hát bội từ khi còn nhỏ. Năm 1941, lúc đó tôi mới 15 tuổi, vậy mà tôi đã đi bộ hơn 10 cây số đường làng sang Sơn Trung, Lộc Đại thuộc xã Quế Hiệp, Huyện Quế Sơn bây giờ để xem đội văn nghệ của 2 làng hát bội.
Năm 1942, trong thời gian hoạt động bí mật chống Pháp tôi bị mật thám bắt giam tại nhà lao Hội An. Trong quá trình tại trại, chúng tôi xác định lấy văn nghệ làm mũi nhọn đấu tranh. Trong số các đồng chí bị tù, có các anh Đình Dương, Trần Tráng, Trần Sắc quê ở Nghi Sơn, Đại Lộc có biết hát tuồng.
Vậy là cứ mỗi lần sinh hoạt, các anh em tù tại nhà lao chúng tôi vận động các anh ấy trích diễn một số đoạn tuồng trong vở tuồng "Trưng Trắc, Trưng Nhị", mục đích chính là nhằm khích lệ anh em đồng chí nêu cao tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm. Lúc đầu, bọn cai ngục cương quyết cấm đoán, không cho diễn, chúng tôi lấy cớ là phục vụ văn nghệ, vui chơi ca hát cho đỡ buồn. Chúng đồng ý, nhưng vẫn đứng kiểm soát ngoài cửa sắt, từ phản ứng cấm đoán, dần dà trong quá trình xem biểu diễn thì bọn chúng im lặng, và cuối cùng để yên cho chúng tôi biểu diễn. Cũng bắt đầu từ đó, trong những buổi sinh hoạt của trại, chúng tôi lại tổ chức hát bội nhằm giáo dục, tuyên truyền và động viên khích lệ nhau cố gắng chịu đựng mọi sự hà khắc của nhà lao để đạt được đích cuối cùng của người chiến sĩ cách mạng.
Sau ngày Cách mạng Tháng 8 thành công, tôi vào bộ đội, đi chiến đấu ở Tây Nguyên. Duyên may lại được gặp gỡ với tuồng qua nhiều năm xa cách, bởi là nơi đóng quân của đơn vị tôi ở huyện Bình Khê, nay là Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định. Đây là một địa phương có truyền thống hát bội lâu đời, vì vậy, có rất nhiều đội tuồng khá tốt, cho nên những lúc rãnh rỗi là chúng tôi đi xem hát bội, có nhiều lúc đơn vị chúng tôi mời cả một đội tuồng về biểu diễn phục vụ cho bộ đội. Tuy nhiên trang bị các đội tuồng lúc đó còn quá đơn giản, chỉ có một số áo, mão, hài, giáp sơ sài, thậm chí còn lấy giấy màu để gián lên áo, mão để thay chỉ thêu, sân khấu thì chỉ mấy tấm ván ghép lại, dùng những cây tre dài để buộc vào làm ghế. Vậy mà, qua nhiều đêm biểu diễn, không những cá nhân tôi mà anh em trong đơn vị cứ mãi mê ngồi thưởng thức, có đêm đến 12 giờ khuya mới tan buổi hát. Mới biết sức hấp dẫn của nghệ thuật là tuyệt vời.
Năm 1953, tôi về phép thăm quê ở Quảng Nam. Bất ngờ có đoàn tuồng Liên khu V do ông Hoàng Châu Ký phụ trách và các nghệ sĩ Nguyễn Nho Tuý, Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu... cùng đi biểu diễn, ra sát vùng giáp ranh tạm chiến ở Quế Xuân, cách đồn Bà Rén khoảng 03 cây số, rất gần với tầm pháo bắn của địch. Vậy mà nhân dân vẫn nô nức đón xem, có đêm cả mấy ngàn người. Đặc biệt là vở tuồng "Chị Ngộ" - một vở tuồng diễn theo lối hiện đại, là chuyện có thật tại Quảng Nam. Vở tuồng đã khích lệ được lòng căm thù giặc ngoại xâm trong lòng nhân dân và động viên tinh thần cách mạng kháng chiến của quần chúng. Riêng tôi, những lời ca, tiếng hát của các nghệ sĩ đã gây một ấn tượng sâu sắc, suốt đời không quên.
Vì chiến tranh và công tác bận rộn cho nên trong gần 20 năm tôi không được xem tuồng. Cuộc hội ngộ bất ngờ năm 1970, tại đường 9 Nam Lào, đã làm cho tôi thật sự xúc động. Lần đó được lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh và Bộ tư lệnh quân khu V điều cả sư đoàn chúng tôi từ Quảng Nam - ra đường 9 Nam Lào để chuẩn bị cho chiến trường và sẵn sàng đánh bọn Mỹ ngụy đổ bộ ở khu vực đường 9 Nam Lào đến Sê Pôn - Bản Đông.
Lúc đó tôi đi kiểm tra một đơn vị đóng cách binh trạm giao liên khoảng 12 km, thì gặp các em diễn viên của Đoàn tuồng giải phóng Quảng Nam gồm 14 em được cử ra Bắc để học tập, thông qua lời giới thiệu của trạm trưởng (trạm 193). Nhìn các em còn quá ngây thơ, lòng tôi xao xuyến, có em chỉ mới 15, 16 tuổi vậy mà đã phải xa quê hương, xa cha mẹ, đi làm nhiệm vụ cách mạng. Lúc này đang trên đường đi công tác kiểm tra tôi không mang theo gì cả nên chỉ gặp các em để động viên tinh thần, tôi nhớ tôi có nói: "Các em làm nghệ sĩ thì rất dễ rung động trái tim mọi người, nhưng cũng cẩn thận, nghệ sĩ cũng dễ bị người ta rung động trái tim lắm". Nhìn những nét mặt ngây thơ của các em vừa phải trải qua những tháng ngày trèo đèo lội suối, lương thực, thực phẩm thiếu thốn, vóc dáng xanh xao vàng vọt, tôi thương lắm, ngay trong đêm đó tôi cử 04 chiến sĩ trở về đơn vị nhận một số thực phẩm như thịt hộp, sữa, đường, lương khô, gạo, đây là lương thực của đơn vị, chúng tôi ra đóng quân được Tổng cục Hậu cần tiếp tế vào trước đó 02 ngày, mặc dù đơn vị sư đoàn vẫn chưa được đầy đủ, nhưng tình cảm quê hương, đồng đội "Một miếng khi đói bằng một gói khi no" đã san sẻ cùng nhau để động viên nhau vượt qua gian khổ. Cũng trong đêm đó, các em đã tổ chức biểu diễn 40 phút cho chúng tôi xem một số trích đoạn theo lối đọc tuồng, cả đoàn chúng tôi ai nấy đều xúc động. Xúc động vì giữa cánh rừng xanh bạc ngàn trên đất bạn, lại vang lên những tiếng hát bội của các cháu nghệ sĩ Việt Nam. Sáng mai trong phút chia tay tôi chỉ khuyên các em mấy lời rằng: “Các em hãy đoàn kết, chịu đựng gian khó, ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa học tập thật giỏi để nhanh chóng được trở về quê hương phục vụ nhân dân, phục vụ quân đội".
Cuộc chia tay năm đó tính đến nay vừa tròn 40 năm chẵn, nhưng những kỷ niệm sâu xa đó không bao giờ mờ nhạt trong lòng tôi. Năm 1974, lại một cuộc hội ngộ bất ngờ thú vị đối với bản thân tôi. Lúc đó vừa kết thúc chiến dịch mùa hè, Sư đoàn chúng tôi thu hồi được một số xã ở Nam Tam Kỳ bị địch lấn chiếm. Thắng lợi mùa hè kết thúc, Đoàn cán bộ sư đoàn 2 chúng tôi về quân khu dự tổng kết để chuẩn bị cho chiến dịch mùa thu, tiến đánh Nông Sơn - Trung Phước, giải phóng hết các đồn địch ở Tây Quế Sơn. Lúc này chúng tôi đang chuẩn bị cho chiến dịch hết sức khẩn trương thì được Bộ tư lệnh quân khu tổ chức hai đêm biểu diễn hát bội tại căn cứ quân khu bộ 6 Nước Oa - Trà My. Tôi lại được gặp lại các diễn viên nhỏ bé năm nào hành quân ra Bắc học tập ở đường 9 Nam Lào. Nhưng lần này các em khỏe hẳn, lớn hẳn về mọi mặt, đoàn đã được nhà trường miền Bắc đào tạo bổ sung một lực lượng diễn viên tốt nghiệp trung cấp tuồng tại trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam. Nhìn các em biểu diễn lòng tôi lại bồi hồi xúc động. Đêm thứ nhất được xem các cháu biểu diễn vở "Ngọn lửa Hồng Sơn" - vở tuồng thật hay, thật ý nghĩa. Có một lớp tuồng đã gây ấn tượng mạnh trong chúng tôi là những nhà quân sự.
"Tạ Thị Phương Cơ" - con gái của Tạ Ngọc Lân lại có một người anh là Tạ Kim Hùng phản loạn. Vì muốn về kinh sư để nắm tình hình triều đình cho cha biết. Khi qua ải quân canh tuần, cô đã khôn khéo giả làm người điên để đánh lừa quân giặc. Với sự thông minh của người phụ nữ Việt Nam, Tạ Phương Cơ đã đánh lừa quân canh ải và vào thành nắm tin tức về báo cho cha lập kế hoạch chiến đầu giành thắng lợi. Đêm biểu diễn ấy đã gợi ý cho chúng tôi là những người làm quân sự phải suy nghĩ nhưng mưu kế để đánh thắng quân thù.
Đêm thứ hai là vở tuồng "Trần Quốc Toản ra quân". Chủ đề của vở tuồng là ca ngợi tinh thần dũng cảm của thiếu niên Việt Nam, tuổi nhỏ nhưng chí lớn, diễn viên diễn xuất giỏi, nhạc hay, đêm tuồng đã gây được một tác động cổ vũ cho chúng tôi tăng thêm ý chí quyết tâm đánh quân thù giải phóng miền Nam.
Hai đêm diễn ấy cách đây đã 28 năm, vậy nhưng khi nhắc lại tôi vẫn thấy thú vị và giá trị nghệ thuật đã phục vụ cho chiến tranh cách mạng. Sau đó mỗi người một nhiệm vụ, chúng tôi lao vào tổ chức các trận đánh, giải phóng Nông Sơn - Trung Phước và Tây Quế Sơn. Đoàn tuồng giải phóng khu V trực thuộc Ban Tuyên huấn khu uỷ khu V lại tiếp tục phục vụ các vùng giải phóng cho đến đại chiến thắng mùa Xuân 1975.
Đầu năm 1976 đoàn được chuyển về quê hương mình, trở thành đoàn nghệ thuật tuồng Quảng Nam - Đà Nẵng, và với một chủ trương đường lối nghệ thuật đúng đắn và sự quan tâm của lãnh đạo địa phương.
Năm 1992, đoàn đã được nâng cấp thành Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nay là Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển | Dĩnh thành phố Đà Nẵng.
Trong thời gian qua, tôi vẫn thường xuyên theo dõi và thưởng thức nghệ thuật do các nghệ sĩ của nhà hát biểu diễn. Như các vở "Sơn Hậu, Ngoại tổ dâng đầu, Lý Phụng Đình" và các vở tuồng lịch sử dân gian như: "Trần Bình Trọng, My Châu Trọng Thuỷ, Lục Vân Tiên, Đêm hội Long Trì", và cả những vở tuồng hiện đại.
Tôi nhận thấy từ Đoàn đến Nhà hát đã tiến một bước rất dài về mọi mặt như nội dung nghệ thuật, tổ chức đêm diễn, quản lý Nhà hát, thỉnh thoảng tôi gặp lại các cháu diễn viên ngây thơ nhỏ nhắn năm nào trên đỉnh Trường Sơn, nay họ đã là những nghệ sĩ xuất sắc, những nhạc công, diễn viên giỏi đang tiếp tục phục vụ cho sự nghiệp văn nghệ cách mạng và cái đáng quý nhất ở họ là tấm lòng chân thật và tôn trọng các bậc hiền nhân như NSND Chánh Phẩm, Nguyễn Nho Tuý, Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu... những người thầy đã dìu dắt họ từ trong trứng nước nghề nghiệp mà có được ngày hôm nay.
Bản thân tôi là người quê hương, tôi rất tự hào về Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh của chúng ta ngày hôm nay đã trở thành một trong những đơn vị chủ lực của nghệ thuật tuồng cách mạng Việt Nam, có một lực lượng Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ xuất sắc hùng hậu, nhiều vở diễn được khán giả ngưỡng mộ.
Tự hào thay Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh thành phố Đà Nẵng, một Nhà hát đã có 40 năm giữ gìn và phát triển vốn nghệ thuật dân tộc của cha ông để lại. Một Nhà hát khang trang tọa lạc tại trung tâm thành phố, có đầy đủ tiện nghi để các nghệ sĩ thỏa thích thể hiện nghệ thuật phục vụ nhân dân.
Tôi suy nghĩ đây là hạt giống tốt được gieo trên mảnh đất phù sa, nhất định sẽ được lớn lên và đơm hoa kết trái cho sự nghiệp hát bội Quảng Nam - Đà Nẵng mãi mãi vươn lên. Lòng mong mỏi của tôi là:
"Ước gì để lại mai sau
Từng câu từng đoạn đượm màu nước non".
Nguyễn Huy Chương
