CÁC LÀN ĐIỆU CHÍNH TRONG NGHỆ THUẬT TUỒNG
LÀN ĐIỆU HÁT TUỒNG
* NÓI LỐI
Trong nghệ thuật hát tuồng thì nói lối là loại hình làn điệu chủ yếu chiếm vị trí quan trọng vào bậc nhất. Gọi là nói nhưng thực chất lại là hát có vần, có điệu, có tiết tấu… Cụ Đào Tấn khi dạy hát cho các đào kép hát thời đó thường giải thích rằng “Nói lối là làn điệu nói dẫn đường”. Khi diễn viên tự giới thiệu với khán giả và trình bày một cảnh ngộ nào đó thì họ nói lối. Hai tướng ra trận trước khi đánh nhau, mỗi bên tự xưng tên tuổi, chức tước, khiêu khích nhau… cũng bằng điệu nói lối.
Cấu trúc của nói lối thường là thể thơ biền ngẫu đối xứng từ 3 chữ tới 10 chữ. Nhưng thường dùng thể 4 chữ đến 8 chữ. Một câu nói lối thường có hai vế. Vế đầu gọi là vế trống, vế sau gọi là về mái.
VD: Đường có trải mới hay sức ngựa
Lửa không nung sao biết tuổi vàng
- Lối 3 chữ: Đầu! Đầu! Đầu
Khổ! Khổ! Khổ
- Lối 4 chữ: Cúi lạy thiên nhan
Xuống chơi trần thế
- Lối 5 chữ: Giữ một lòng nghĩa khí
Lập hai chữ công danh
- Lối 6 chữ: Tuy hãy trong vòng hoạn nạn
Song đà đặng chữ bình an
- Lối 6 chữ (trùng 3 chữ một):
Tâm nan định, tâm nan định
- Lối 6 chữ (trùng 2 chữ sau):
Tâm thần điên đảo, điên đảo
Hồn phách đê mê, đê mê
- Lối 7 chữ: Ngao ngán bấy nỗi mình phận bạc
Xót xa thay cho kiếp má hồng
- Lối 8 chữ: Vì má hồng nên cam phận rủi ro
Cưu thói bạc lại chịu điều cay đắng
- Lối 9 chữ: Trăng rẽ vầng, gió đã tạt, mưa lại phai
Chồng còn sống, cháu ngồi đây, con biết lật
- Lối 10 chữ: Những kẻ toàn tâm toàn ý thật đáng khen
Ngoài ra, nói lối còn được cấu tạo đặc biệt do vận dụng ngôn ngữ văn học tài tình như áp dụng tục ngữ, thành ngữ vào trong câu nói
No mất ngon, giận mất khôn
Hoặc đưa điển tích vào trong câu lối, làm giàu hình ảnh và ý nghĩa của câu.
Người đã bắt cầu Ô Thước
Tôi xin buộc mối xích thằng
Có nhiều kiểu nói lối. Trong đó những kiểu nói lối thường dùng nhất trong nghệ thuật hát tuồng là:
1. LỐI XÂY: thường gọi là lối ghế (do các nhân vật thường ngồi ghế để xưng tên rồi biểu thị tâm tình. Kiểu này thường dùng ở đầu vở kịch, lớp kịch. Các nhân vật vua, chúa, quan lại hoặc đào kép chánh trong vở là hay dùng. Trong lối xây cũng có nhiều loại: Xây tá và Xây thượng.
- Xây Tá (Diễn tả tâm trạng vui tươi, phấn khởi):
Cảnh an lạc mưa hòa gió thuận
Cuộc thanh bình nước trị nhà an
- Xây Thượng (nghiêm trang, diễn tả tâm trạng suy tư, lo âu).
Nghĩ cuộc sống giận cha lòng những nát
Gẫm thân mình đôi cảnh luống chua cay
Ngoài ra có một loại Lối xây mang tính chất trung hòa giữa xây Tá và xây Thượng, đó là Xây dựng (Phụ họa hỗ trợ cho tính cách và hoàn cảnh của nhân vật)
Dân tộc đương cơn khói lửa
Giang sơn còn lắm chông gai
(Vậy thì chúng ta)
Diệt quân thù gái cũng như trai
Giúp vận nước suy rồi lại thịnh
2. LỐI DỰNG: Là loại nói lối thông thường nhất để các nhân vật bộc bạch tâm sự, hoàn cảnh của mình. Tính chất tự sự giao đãi, hơi khỏe, hơi nhanh hoặc hơi chậm tùy theo tính cách nhân vật và hoàn cảnh tình huống kịch
Con trẻ đừng sợ hãi
Cha già đã đến nơi
Lời tùy nghi bẩm báo vừa rồi
Hình thiếu nữ (sao mà) ngẩn ngơ dường ấy
3. LỐI ĐIỆU: Đây là loại lối ngân nga, kéo dài chữ, có lên xuống trầm bỗng rõ ràng. Thường dùng cho các nhân vật nữ cao quý
Kề trướng phụng nhọc lòng suy nghĩ
Ngóng đèn rồng chạnh dạ bi thương
Ba em đà đem thói bấy lương
Một mình phải cam bề khổ lụy
(Vai Nguyệt Hạo - Tuồng Sơn hậu)
4. LỐI BÓP: Là làn điệu quan trọng trong nghệ thuật hát tuồng, thường dùng để thể hiện cao trào của tình cảm, của vở kịch, dùng trong lúc xung đột, ra trận, căng thẳng, đột biến. Lối bóp chia làm nhiều loại: Bóp dựng, Bóp ai, Bóp đạp…
- BÓP THƯỜNG: Nói trong hoàn cảnh bị căng thẳng
Anh hùng đừng nản chí
Nản chí chẳng anh hùng
Yêng hãy phò Hoàng tử, Thứ cung
Mau ra chốn Đồng quan lánh nạn
(Khương Linh Tá - Sơn hậu)
- BÓP DỰNG: Nói trong lúc gấp gáp, mạnh mẽ, đánh nhau
Bước anh hùng đã lỡ
Gan nhi nữ càng dày
Nếu chẳng liều sinh tử giữa chông gai
Ai còn kể ân tình trong nước lửa
(Lan Anh - Hộ sanh đàn)
- LỐI BÓP ĐẠP DỰNG: Nói từng tiếng theo nhịp trống Rụp, đạp Xuân thì khỏe, ngắt
Xin bà dời chốn khác
Khá lên ngựa cho mau
Từng nghe bà thiện dụng bảo đao
Tôi đành để một đôi song kiếm
Phòng khi nguy biến
Ngăn chúng tặc binh
Đêm tối lánh mình
Đường xa lướt dặm
(Đổng Kim Lân - Sơn hậu)
- LỐI BÓP ĐẠP AI: Nói từng tiếng theo nhịp trống Rụp những giai điệu bi ai, chữ trước lúc ngắt hơi thì kéo dài:
(Phu quân ơi!)
Thà không tài nhảy ngựa cướp cờ mà chịu tội bó tay nơi điện bệ
Đã có sức xô thành phá lũy nỡ ôm lòng chịu xấu chốn phòng khuê
(Đào Tam Xuân - Trảm Trịnh Ân)
- LỐI BÓP AI (HOẶC BÓP LỤY): Là loại nói lối chậm, bi ai nhưng các chữ không nhấn mạnh theo như Bóp đạp ai mà các chữ chỉ nói theo kiểu kéo dài nhấn luyến của hơi ai.Vế trống ngắt câu như lối bóp thường, còn vế mái chừa lại sau 4 chữ (khác với các nguyên tắc nói lối thường là vế mái chừa sau 2 chữ)
Nhìn vương muội khôn ngăn giọt lệ
Nhớ Trịnh Công khó lấp nỗi sầu
Bởi vì đâu gây cuộc bể dâu
Cho đến nỗi quân ba tan tác
(Cao Hoài Đức - Tuồng Trảm Trịnh Ân)
Tất cả các loại nói bóp trên đều được nói trên nền đệm của bài nhạc Bóp tuồng. Giai điệu bài bóp bi hùng là đặc trưng của âm nhạc tuồng.
6. LỐI AI: Là loại nói lối có giai điệu mang hơi Ai, có thể nói riêng và thông thường nói lối ai dẫn xuống hát Nam ai. Dùng trong hoàn cảnh bi thương, chia ly, đau xót:
Thân bạn nhẹ dường như chiếc lá
Lưỡi thù bén quá con dao
Kíp bưng đầu về nạp nội trào
Đành nuốt lệ vào nơi ngọc bệ
- Lối đạp ai: không trên nền nhạc Bóp mà nói rồi trống rụp theo từng chữ, đàn nhị dạo tòng hơi ai, tình cảm bi lụy nhưng dồn dập
Bên cạnh các loại nói lối còn có những câu nói ngắn, đoạn nói ngắn được gọi là Hường, kẻ và tán
- KẺ là những câu nói ngắn phụ giữa các câu nói lối hoặc giữa các câu hát các loại
VD: (Chúng ta phải) - (Phu quân ơi!)
- HƯỜNG: là những đoạn nói thường, ngắn ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu nói lối, hát nam, hát khách hoặc tất cả các làn điệu khác
VD: Thán: Thương bấy nhà Tề nền xã tắc
Giận thay họ Tạ thói gian manh
Hường: (Thương hại cho tôi giờ đây vô một mình, ra cũng một mình, tôi biết lo liệu cùng ai đây)
- TÁN là những câu nói lối ở đầu câu hoặc ở giữa các câu hát Nam (Nam Xuân, Nam Ai, Nam Xuân nữ). Mục đích làm phong phú thêm làn điệu, từ hát Nam chuyển nói lối rồi lại về hát Nam nhưng vẫn trên nền bài hát Nam. Tán thường là câu nói 5 chữ hoặc 7 chữ, nhưng 5 chữ là đắc dụng nhất. Tán nằm giữa loại hát Nam nào thì phải nói theo tính chất của loại hát Nam đó
Công cả chưa nêu vân các
Máu oan đã nhuộm chinh bào
Tán Lòng người ví tợ chòm mây nổi
Cuộc thế minh minh lớp sóng xao
(Em ơi!)
Hát Nam Tiếc thương còn biết thế nào
(Em chết oan ức làm ri ai mà không thương không tiếc em ơi)
Quyên sôi máu hận nhạn gào đêm thu
HỆ THỐNG HÁT NAM
Hát Nam là loại hình làn điệu rất chủ yếu trong nghệ thuật hát tuồng. Bởi vì hát Nam dùng khi tình cảm của nhân vật lên tới cao trào trong tình huống kịch. Vui nhất thì hát Nam Xuân, buồn thì hát Nam Ai. Cụ Đào Tấn thường dạy các đào kép của mình: “Hát Nam gồm có giọng Xuân và giọng Ai. Giọng Xuân ít buồn đầy thi vị dùng trong những cơn ly biệt, sầu tình. Giọng Ai hát trong cảnh đau khổ, não nề. Những câu hát Nam, dù hát giọng Xuân hay giọng Ai đều nối theo những câu lối cùng giọng. Đào kép muốn trỗi giọng Nam thì phải nói lối mở Vĩ cho rành: hễ nói giọng Xuân thì hát Xuân, giọng Ai thì hát Ai”
Tuồng xưa chia hát Nam ra thành hai loại chính là Nam Xuân và Nam Ai như cụ Đào Tấn đã nói. Nhưng trong thời kỳ 1930 - 1945, do ảnh hưởng của dòng văn học lãng mạn và nghệ thuật cải lương tài tử phát triển mạnh nên các nghệ sĩ tuồng thời đó đã dựa trên cơ sở của Nam Ai pha trộn với kiểu cách của nghệ thuật Xuân nữ cải lương sáng tạo ra một loại hát Nam mới gọi là Nam Xuân Nữ (còn gọi là Nam pha). Tính chất của Nam Xuân Nữ là bi lụy, buồn man mác. Nguyên tắc hát của Nam Xuân nữ cũng có lối tán Xuân nữ dẫn xuống hát luyến láy nhanh hơn, dồn dập hơn so với Nam Ai.
Cấu trúc của hát Nam thông thường thì có 3 câu gọi là 1 sắp. Câu thứ nhất gọi là câu trống gồm có 2 vế theo thể song thất lục bát phá thể (vế trống 6 chữ, vế mái 7 chữ). Câu thứ 2 gọi là câu mái, bao giờ cũng ở thể lục bát
NAM AI: dùng để diễn tả tình cảm bi lụy, đau thương, mất mác, chia ly sầu thảm. Có 2 kiểu, 1 kiểu thường dùng rất chậm để diễn tả tình cảm bi lụy và 1 kiểu dùng nhanh khi nhân vật mang tâm trạng đau thương trong hoàn cảnh đi đường gấp gáp.
- Nam Ai thường dùng:
Sương phủ phất phơ vườn hạnh
Mưa mai lác đác cành dương
Lối ai: (Thôi thôi) Đã phủi rồi son phấn một trường
Âu trở lại nước non ngàn dặm
Nam ai: Ngàn dặm thẹn cùng non nước
Gẫm mơ màng thân trước thân sau
Dặm hòe một bước một đau
Nhìn phong cảnh cũ ra màu dở dang
Ôm lòng hổ với phu lang
Trăm năm lỗi hẹn cũng chàng từ đây
(Hồ Nguyệt Cô hóa cáo - TuồngTrầm Hương Các )
* TẨU MÃ (Khách Tẩu)
Hát tẩu mã được coi là một dạng của hát khách. Vì từ cấu trúc văn học của hát tẩu mã đến luyến láy, thang âm điệu thức điệu giống với hát khách. Hát tẩu mã tiết tấu nhanh gần như gấp đôi hát khách thường, luyến láy ngắn gọn, rõ nét từng chữ để diễn tả không khí khẩn trương, dồn dập, căng thẳng.
Hát tẩu mã được cấu trúc theo thể thơ tứ tuyệt hoặc thể đối (song quan biền ngẫu từ 7 chữ trở lên. Tuy nhiên do diễn tả sự khẩn trương nên hát tẩu không bao giờ có cấu trúc nhiều chữ. Thông thường nhất là 7 chữ và 11 chữ)
- Hát tẩu mã 7 chữ
Dắt dìu già trẻ cùng sau trước
Nào ngại xa xôi chốn đế đình
(Phương Cơ - Tam nữ đồ vương)
* BÀI NHỊP 4:
Các làn điệu có nhịp trong hát tuồng được các nghệ nhân tiền bối gọi một cách nôm na là bắt bài. Bài có ý nghĩa là có nhịp. Căn cứ trên nhịp trống, các làn điệu có nhịp trong hát tuồng được chia ra thành nhịp 1, nhịp 2, nhịp 3, nhịp 4…
Trong các vở tuồng truyền thống thì các làn điệu có nhịp được dùng ở vị trí thứ nhì, không quan trọng bằng hát Nam, hát Khách, hay các làn điệu không nhịp như Bạch, Xướng, Thán. Tuy nhiên do tính chất của các bài bản có nhịp có cấu trúc chặt chẽ, gọn gàng, tươi mát nên dần dần các loại nhịp này được chú trọng hơn và được sử dụng nhiều hơn trong các tuồng lịch sử, dân gian và hiện đại. Có thể coi các làn điệu có nhịp là những mô hình ca khúc truyền thống tương đối hoàn chỉnh. Và có như vậy nó mới hợp thành thể thống nhất trong sự biến hóa phong phú của các thể loại hát tuồng.
VD: Em từng bay bổng trên cao
Dì trăng, thím gió, cô sao đợi chờ
Chị Hằng ru thiếp làm thơ
Dự xong tiệc rượu ngẩn ngơ tấc lòng
Con chim xanh bay bổng qua sông
Hỏi thăm em bậu có chồng hay chưa
Có chồng năm ngoái năm xưa
Năm nay chồng chết như chưa có chồng
Trông lên hòn núi tang bồng
Con gái chưa chồng như ông Huyện đóng gông
Hỏi nàng có muốn anh không
Anh thưa quan Huyện mở gông cho nàng
Anh thưa quan Huyện mở nàng cho anh
* KHÁCH HÀNH BINH: là một loại nằm trong hệ thống hát khách. Khách hành binh hát với tiết tấu nhanh, sôi nổi thường dùng khi vua chúa, tướng lĩnh cử binh ra trận
Trọn nghĩa tòng phu hăm hở ra binh đành nuốt lệ
Đền ơn gia lão, sạch sành rửa oán quyết ra tay
(Đào Tam Xuân - Trảm Trịnh Ân)
* HÁT NAM
Hát Nam thường viết theo thể thơ Lục bát, song thất lục bát, lục bát phá thể. Còn văn xuôi là dùng cho hường, kẽ. Nhưng cũng có trường hợp dùng Tán. nếu nhân vatạ ấy có nhiều tâm trạng hết sức éo le thì dùng thể thơ thất ngôn rồi xuống hát Nam. Hoặc có dùng tán thì dùng thể thơ ngũ ngôn.
Nam Bình: Điệu nam Bình mang tính chất vui tươi, tiết tấu thư dãn và thường được sử dụng đối với các nhân vật văn nhân, trí sỹ… và thường được áp dụng trong hoàn cảnh yên bình. Ví dụ như tự sự đời tư, tả chuyện hành trình, bộc lộ ý chí và hoài bão trong tiền đồ, sự nghiệp, thỏa mãn với thành tích đã đạt được hay hứa hẹn khi tiễn biệt nhau
NAM BÌNH HẬN
Nói lối Anh dù chết em cần phải sống
Nhà dù tan nước giữ cho còn
Mây sầu giăng ải Bắc dập dồn
Lửa hận cháy trời Nam phừng phực
Hát Nam: Phừng phực lửa tim không nguội
Quyết một lòng chẳng đội trời chung
Điệu tán: Dân tình chơn thống khổ
Tổ quốc nỗi tồn vong
Nếu người còn tâm huyết
Ngồi vậy ngó sao xong
Hát Nam: Bao thu cá chậu chim lồng
Thù lan bể rộng oán chồng non cao
NAM BÌNH MANG HƠI THIỀN
VD: Cởi cà sa từ giả chốn am thiền
Vung đôi búa thẳng xông miền kinh địa
NAM: Kinh địa cứu nguy nữ chúa
Chốn am thiền dậy lửa trần ai
Xót thân hổ với cao dày
Nung gan giúp nước chau mày phụ cha
Tưởng oan gia càng sa nước mắt
(Nam mô a di đà Phật!)
Gan anh hùng trổ mặt từ bi
(Tư Cung - Ngọn lửa Hồng Sơn)
NAM BÌNH THƯƠNG
Phi Hổ : Từ min ra làm tướng
Nay biết sức Trụ Vương
(Như Trụ Vương là)
Tài nên tài dũng quán tam quân
Sức đáng sức long tranh hổ đấu
(Các em) Ân Thọ đã thế suy thối hậu
Truyền các em tiến Giới Bài quan
Khoan khoan phất cờ sâm
Từ từ ra ải nhạn
NAM Ải nhạn từ từ giơ vọt
Gẫm sự tình, chua sót đòi cơn
* NAM AI: dùng để diễn tả tình cảm bi lụy, đau thương, mất mác, chia ly sầu thảm. Có 2 kiểu, 1 kiểu thường dùng rất chậm để diễn tả tình cảm bi lụy và 1 kiểu dùng nhanh khi nhân vật mang tâm trạng đau thương trong hoàn cảnh đi đường gấp gáp.
(Trịnh Đệ em ơi)
Thân bạn dường như chiếc lá
Lưỡi thù bén quá con dao
(Tôi biết ăn nói làm sao đay, thôi thôi)
Lau lệ mà gác nỗi thương đau
Ôm đầu kíp về tâu cửa bệ
Hát Nam Âu kíp về tâu cửa bệ
(Có ra chi đâu em ơi!)
Người ở đời thác thể chiêm bao
Em ơi công cả chưa nêu vân các
(Mà bây giờ đây)
Máu oan đã nhuộm chinh bào
Lòng người ví tợ chòm mây nổi
Cuộc thế minh minh lớp sóng xao
(Em ơi!)
Tiếc thương còn biết thế nào
(Em chết oan ức làm ri ai mà không thương không tiếc em ơi)
Quyên sôi máu hận nhạn gào đêm thu
Bởi vì đâu gieo sầu kết oán
(Thương hại cho tôi bây giờ đây)
Một bước đường một đoạn thương đau
(Cao Hoài Đức rọi đèn - Đào Tam Xuân loạn trào)
* KHÁCH ĐỐI THOẠI: Trường hợp này dùng nhiều, là chỗ đắc dụng của hát khách, bởi vì khách đối đáp mới hay. Khách đối thoại có thể 2 người cùng hát 1 câu, mỗi người 1 vế hoặc có thể hoặc có thể mỗi người hát 1 câu trọn vẹn
VD: Tiếc bấy mảnh gương thu chớ để bùn nhơ làm vẩn đục
Giận thay dòng giống Việt trót cưu mang lẫn giọt máu thù
(Trần Bình Trọng)
BÀI VIẾT CỦA NHÀ HÁT TUỒNG NGUYỄN HIỂN DĨNH
(DỰA THEO TƯ LIỆU SƯU TẦM CỦA CÁC THẦY)