
NSƯT VĂN PHƯỚC KHÔI
Tên thường gọi: Ông Sơn
Năm sinh: 1896 - Năm mất: 1983
Quê quán: Bầu Toa, Đại Thanh, Đại Lộc, Quảng Nam - Đà Nẵng.
Vào đầu những năm 40, giá thuốc phiện ngày càng lên cao - Bác Nhưng Sơn nằm bên bàn đèn suy nghĩ rất lâu, mắt lim nhìn ngọn đèn con leo lét giữa ban ngày. Bỗng bác ngồi dậy cười ha hả. Tiếng cười có phần cay chua nhưng lại như sảng khoái, dứt khoát. Bác nói, gần như hát tuồng: Vợ con ơi ! Ta bỏ thuốc phiện đây !
Nói xong, bác co chân đá một phát, bàn đèn, đọc tẩu vỡ tan. Thế là bác dứt hẳn duyên nợ với ả phù dung.
Cai thuốc phiện là việc thiên nan vạn nan đối với nhiều người, nhưng với bác Sơn lại vô cùng nhẹ nhõm - Nhẹ nhõm mà kiên quyết - Nặng như chỉ bỗng nhẹ như bấc.
Bỏ thuốc phiện, bác Sơn lấy việc câu cá làm vui; câu cá vui lại có thêm thức ăn, như bác nói. Tối biểu diễn, sáng dậy đi câu. Nghề này phải trì chí; lắm khi ngồi mãi mà cá chẳng cắn câu.
Ai gặp và nói chuyện với bác Sơn chỉ một lần thôi, cũng thấy được rằng đó là người hết sức vui tính, thích pha trò và pha trò rất có duyên - Ngày xưa lắm cô mê mệt với cái duyên pha trò ấy của anh kép Sơn trẻ trung trên sân khấu.
Cương quyết, kiên trì và lạc quan yêu đời là ba mặt thuộc bản chất của bác Sơn. Ba mặt đó đã tạo nên tài năng nghệ sĩ của bác. Tất nhiên phải cộng vào đó năng khiếu bẩm sinh và "gien" gia đình nghệ thuật.
Năm 1952, ở thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam - Đà Nẵng) hàng ngày không biết có bao lần báo động, có máy bay địch đến, nhiều lần bắn phá vùng này. Và cũng hàng ngày bác Nhưng Sơn gánh vài hòn đá mài và một cái chậu mẻ (để múc nước) ung dung đi quanh trong thị xã. Ai cần mài dao, bác ghé vào mài. Bác mài rất kỷ, động tác khoan thai. Mài xong, bác trả dao lại cho chủ thường kèm theo một câu khôi hài vui vẻ, nhận năm ba hào công.
Cuộc sống vất vả - Ấy vậy mà mỗi lần có thư hay người từ vùng tạm chiếm lên, mời bác về diễn ở Hội An, Đà Nẵng, trả lương cao, bác lại cười hà hà có vẻ đắc thắng : Lão đã quyết lòng theo kháng chiến - Tiền trăm, bạc vạn chẳng mơ màng.
Gặp tôi và mấy đồng nghiệp một cách bất ngờ, bác Sơn cười hể hả, tay bắt mặt mừng. Tôi nói vui: Cái gánh đá mài dao của bác là gánh giang sơn đó. Dễ gì ai cũng gánh nổi.
Bác nói: Cuộc đời mình trước kia đã từng phải lụy với thằng Tây. Bây giờ chỉ việc ngồi bàn chuyện đánh nó, chửi nó công khai cũng đã sướng cái bụng rồi, tội gì phải vào trong vùng nó nữa.
Tôi trình bày việc thành lập đoànTuồng Liên khu V, mời bác, bác hồ hởi trả lời: Hà hà! Vậy là tôi đắc thắng rồi. Về hát với Tây với Việt gian thì không bao giờ. Nhưng hát với kháng chiến, với Cụ Hồ thì xin cất bước ngay. Thế rồi cũng rất nhẹ nhõm, bác nói với bác gái vài câu, dặn ở nhà cứ lo làm ăn như lâu nay để kiếm sống, rồi bác lên đường với chúng tôi ngay, mang theo vài bộ quần áo cũ.
Văn Phước Khôi, vốn có tên là Côi, sinh ở làng Bầu Toa, một làng trù phú nằm ở tả ngạn sông Thu Bồn, thuộc vùng trung lưu tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đây là địa phương có truyền thống hát tuồng. Ông cụ thân sinh và ông chú ruột của bác đều là diễn viên tuồng có trình độ vững. Rồi anh em trong gia đình họ hàng nhiều người tham gia hoạt động nghệ thuật. Nghệ sĩ ngày xưa có ai giàu đâu! Họ bảo nghề là nghiệp - nghiệp chướng. Nhưng cuộc đời đã gắn bó với nghề nên phải hành nghề.
Gia đình nghèo, vì vậy cậu bé Côi phải đi làm con nuôi một ông họ Văn. Ông này đổi tên Côi thành Khôi và lấy theo họ mình, do đó mới có tên Văn Phước Khôi. Đúng ra là bác họ Nguyễn, anh em chú bác ruột với nghệ sĩ Nguyễn Nho Túy. Về sau bác có con đầu lòng đặt tên là Sơn - Gọi bác Sơn là gọi theo tên con.
Bác Sơn có giọng nam trung, ấm và bùi. Người thấp, nhỏ thó. Do vậy bác chuyên đóng kép văn, lão văn, thái giám. Cũng có khi đóng kép đỏ. Những loại vai ấy bác thường đạt mức trung bình hay trên trung bình. Với trình độ ấy, bác được làm Nhưng. Nhưng trưởng là chức vụ nghề nghiệp dành cho người chỉ đạo nghệ thuật của một gánh tuồng. Tuy vậy, giỏi nhất, thành công nhất, độc đáo nhất của bác Sơn là ở các loại vai hề.
Trong tuồng có hai loại hề. Loại thứ nhất thuộc các thành phần lao động như quân canh, hề đồng, đứa ở… thông minh, nhanh nhẹn, thường dùng trí thông minh của mình để đả kích, vạch trần những cái dốt nát, hư đốn của bọn người thống trị một cách hỏm hỉnh. Họ khôn khéo biến bọn người giàu sang quyền quý ấy thành những nhân vật hài kịch.
Loại thứ hai là loại người có quyền, có chức nhưng dốt nát, bất tài, có địa vị cao chẳng qua là nhờ có thế lực. Chính chúng tự biểu hiện cái bất tài, hư đốn qua hành động của chúng. Đây là loại "công tử bột", "tướng lác"...
Bác Sơn giỏi cả hai loại hề. Bác từng nổi danh trong vai Lôi Nhược, tướng lác trong vở Sơn Hậu, đạt đỉnh cao trong vai Vưu Hồn - tên hoạn quan lộng quyền và nịnh nọt trong vở Gián thập điều…
Nhưng tài năng độc đáo, xuất sắc của bác là ở loại hề thành phần lao động. Với loại hề này người diễn viên có nhiều cơ hội gắn sân khấu với hiện thực cuộc đời. Xin kể vài câu :
Một số diễn viên trong trường hát của cụ Nguyễn Hiển Dĩnh cứ đến mùa xuân thỉnh thoảng lại bỏ đi diễn chỗ này chỗ kia năm bảy đêm để kiếm tiền ngoài, nhưng đến những ngày đông mưa gió thì tập trung không thiếu sót một ai để được cụ Dĩnh nuôi ăn, tập vở. Một hôm cụ Dĩnh bảo: Các chú tề tựu đông đủ quá! Mưa gió thế này thì có khu xu các chú cũng chẳng đi. Thình lình cụ Dĩnh lại dùng chữ Nho trong một câu tiếng Việt. Khu xu nghĩa là xua đuổi.
Mấy hôm sau, nghệ sĩ Nhưng Sơn đóng vai anh bán quán trong vở Ngũ Hổ - nhân vật khách vào hỏi giá một món nhậu, anh quán trả lời: Khu xu!
Người khách hỏi “khu xu” là thế nào ? Anh quán đáp: Trời ơi! Ông kém hiểu biết quá! Khu cũng như đất - Khu xu là đất xu (tiếng Pháp), là một hào - Bác Sơn rất kính trọng cụ Dĩnh, nhưng vẫn đùa với cụ một cách hóm hỉnh, coi như phê bình nhẹ nhàng mà vui vẻ. Hôm ấy cụ Dĩnh cười và đánh liền ba tiếng trống chầu để thưởng tài khôi hài thông minh, sáng tạo ấy.
Đến diễn ở một làng nọ, một ông rất oai vệ, khăn áo sang trọng, người hồng hào béo tốt, râu đen dài và rậm, gọi diễn viên ra bảo, giọng kẻ cả, hách dịch: Phải diễn cho hay nghe! Tao khen được thì ai nấy cũng khen theo. Cái miệng tao mà nói một lời chê là chúng bay chết đói, chẳng ai thèm xem. Rõ chưa ? Các diễn viên đều chắp tay vâng dạ,
Tối hôm ấy nghệ sĩ Sơn đóng vai quân canh ải, nói chuyện với đồng nghiệp. Anh ta kể rằng: Hôm qua không biết từ đâu mà xuất hiện một ông già phương phi quá, nước đa đỏ au, chắc là ăn nhiều thịt cá, uống nhiều nhân sâm. Ông ta ăn mặc chỉnh tề, áo bông hoa chữ thọ, đầu đội khăn nhiễu xanh... tay cầm quạt, vừa quạt, vừa đi thong thả giữa cánh đồng bát ngát. Gió thổi vào chòm râu ông ta, râu bay che lấp cả miệng. Trẻ con chăn trâu thấy ông, vội chạy theo reo hò bảo ông già đẹp quá, oai quá. Có đứa bảo là ông tiên. Chúng chạy đến gần để xem cho rõ. Bỗng có đứa phát hiện: Bay ơi! Ông già không có miệng! Thế là cả lũ hò reo "ông già không có miệng". Ông này tức quá, đứng lại trừng mắt và... vạch râu, chỉ vào miệng mình và quát: Đồ ngu! Cái gì đây ? Lỗ đít à ?
Thế là bọn chăn trâu bỏ chạy, vừa cười vừa reo: "Ha ha! Chúng mày ơi! Ông già có cái lỗ đít biết nói.
Khán giả được một dịp cười khoái trá. Cái ông trưởng giả hách dịch kia thì bầm gan, tím ruột.
Đợt đầu tiên diễn tuồng Chị Ngộ, bác Sơn đóng vai anh Tài. Vai này bị chết ngay ở lớp đầu. Đến lớp "dân công", một lớp phụ - Bác Sơn lại xung phong đóng một vai dân công. Ra khỏi cánh gà, bác để quang gánh xuống, vừa quạt, vừa nghỉ, rồi bắt đầu kể chuyện.
Chuyện rằng trước đây bác sợ đi dân công ra chiến trường, nhưng đi một chuyến rồi lại quen, lại thấy vui... Đặc biệt là tình cờ bác bắt được một tên sĩ quan Pháp. Hôm đó bộ đội mình phục kích một toán giặc đi lùng. Khi đã im tiếng súng, bác gánh gạo đi bên sườn núi thì nghe có tiếng sột soạt trong bụi cây. Bác kêu lên, một thằng sĩ quan Pháp chui ra và ném trước mặt bác một chiếc đồng hồ vàng, ý chừng nó lo lót để được thoát thân. Bác thét lớn: "Bước ra! Trăm cái đồng hồ vàng tao cũng chẳng cần. Đưa tay lên!". Thằng Tây ngập ngừng rồi định chạy. Ấy thế là bác chụp cục cơm nắm ngang bên hông, đưa lên cao và thét: Mày không đầu hàng, tao ném quả lựu đạn này chết cha mày! Thế là tên địch đưa hai tay xin hàng.
Nội dung câu chuyện là thế nhưng bác nói và diễn rất có duyên. Khán giả chỗ nào nghe đoạn này cũng vỗ tay nhiệt liệt. Lớp Tuồng sáng tạo này của bác được ghi bổ sung vào vở, nhưng ngoài bác Sơn ra, không một người nào diễn thành công.
Giỏi vai hề, vai hài nên bác Sơn thụ nhiều vai chính trong các vở tuồng hài và đạt thành công cao trên sân khấu: Thầy Nghêu trong "Nghêu Sò Ốc Hến", Trương Ngáo trong vở cùng tên, Ngụy Mạch trong vở Trần Bồ...
Bác Sơn mất năm 1983 sau khi vừa truyền xong lớp tuồng hài “Đi sứ” cho anh Thảo, một diễn viên của đoàn tuồng Quảng Nam - Đà Nẵng.
Trước giờ mất, được mấy học trò tâm thành hỏi: Thưa thầy, tuổi thầy đã cao, sức yếu... Ra đi, thầy có cần đề nghị Nhà nước khen thưởng gì không?
Bác Sơn trả lời: Thầy mong ước lúc ra đi có được chút "tò tí te" (âm nhạc đưa tang). Bác nhắm mắt thanh thản như yên tâm đã hoàn thành trách nhiệm với cuộc đời.
Tác giả: Hoàng Châu Ký - Bài viết sưu tầm từ tư liệu Tuồng Quảng Nam xưa và nay