
NSND NGUYỄN PHẨM
- Tên thường gọi : Chánh Phẩm - Sinh: 1900 - 1990
- Quê quán: Quảng Nam - Đà Nẵng
Tuy ra đời trong một gia đình ba đời là diễn viên hát Tuồng, Nguyễn Văn Phẩm cũng phải vượt qua sự ngăn cấm nghiêm ngặt của cha mới nối được nghiệp nhà. Ông Nguyễn Vị - thường gọi là CửuVị - thân sinh ông Phẩm - là một diễn viên được nhiều người kính phục và yêu thương, và với nghề nghiệp ông đã trở thành Cửu Vị, có phẩm hàm. Trong xã hội khinh rẻ người làm nghề ca xướng, thế cũng là mát mặt, là vinh dự. Nhưng trong ký ức chưa xa niềm tâm sự của ông Cai Nghi, thân sinh ông, cũng là một kép hát nổi tiếng một thời, vì một lý do nào đó, đã phát phẫn với nghề Tuồng, khi chết dặn con chôn theo toàn bộ đạo cụ Tuồng, hẳn với ý đào sâu chôn chặt, không bao giờ để con cháu còn sờ đến nó. Bản thân ông Cửu Vị, một trong những người thuộc hạ được biệt đãi của Nguyễn Hiển Dĩnh, đã từng dạy dỗ biết bao người thành nghề, trong đó có cả người con rể là ông Nhẫn cũng là một kép hát có cỡ của gánh Tuồng cụ Tuần An Quán. Nhưng với Phẩm, người con trai ngay từ thuở bé ông đã cưng chiều vì thấy có thiên tư, ông không truyền nghề. Là thuộc hạ, nói cho đúng ra thì cũng chỉ ở vào hàng tôi tớ, nhưng là tôi tớ có tài năng và có chút phẩm trật, ông Cửu Vị cùng cả gia đình thường sống cùng nơi với gia quyến của quan Tuần. Và cậu bé Phẩm được bố cho theo đòi nghiên bút, hướng cuộc đời vào con đường chữ nghĩa, khoa cử. Vốn sáng dạ, linh hoạt, cậu Phẩm học hành không đến nỗi nào. Chỉ mỗi tội, mỗi lúc tiếng trống, tiếng phách cất lên là cậu không thể ngồi yên chỗ được. Đã bị đe trước, cậu chỉ dám "giương mắt đứng nhìn", chứ không dám hoa tay múa chân, "ra bộ". Thấy con chỉ xem, dù là xem say mê, chứ không hát xướng gì, ông Cửu Vị yên tâm, để cậu được tự do.
Nhưng rồi điều gì phải xảy ra thì vẫn cứ xảy ra. Một lần, khi gánh hát cụ Tuần đến hát ở Cổ Thành, ông Cửu Vị có việc đi vào xóm. Ở nhà, mọi người đang ôn vở. Thiếu một vai, mà là vai không dễ - Nhị Tẩu - cần người lấp chỗ trống. Cậu Phẩm nài xin người anh rể cho mình "ướm thử". Thì ướm coi” - Ông Nhẫn đồng ý.
Cậu Phẩm lập tức "trút lốt". Ông Nhẫn mê mải xem cậu em vợ "nhập tràng", không để ý ông Cửu Vị đã về từ bao giờ, đang thu mình đứng sau cánh gió, lặng lẽ khóc rồi lặng lẽ cười, không thể nghi ngờ gì là cậu bé có tài bẩm sinh. Ông Phẩm chính thức vào nghề từ hôm ấy.
Ông Tuần Dĩnh về hưu, lập ra gánh hát An Quán, tập hợp hầu hết những nghệ nhân nổi tiếng nhất của Quảng Nam về. Từ Quế Sơn, về Bầu Toa (Đại Lộc) hành nghề rồi truyền nghề, ông Nhưng Đá - người nghệ sĩ được coi là "thế thượng vô song” - lúc này đã già rồi, cũng được quan Tuần mời về diễn, dăm bữa nửa tháng, có khi hàng vài ba tháng trong một năm. Từ Khánh Thọ, có người bạn thân với ông Cửu Vị là ông Quản Lan, từ Túy Loan về có ông Nhưng Vòi, từ Miếu Bông Chợ Mới có ông Cửu Hổ… Mỗi vị đó, khi về Vĩnh Điện đều có mang theo các "đệ tử" vừa để "trình làng" vừa để "tu nghiệp". Từ Bầu Toa về, có ông Trùm Lành, ông Tịnh, ông Ngọ… Lớp con em có ông Kiểm Phụng (Văn Phước Hích), ông Sơn (Văn Phước Khôi), ông Tảo (Nguyễn Nho Túy)... Từ Miếu Bông Chợ Mới và Túy Loan có ông Hai Bãi, ông Nhưng Hai, ông Hỉ, ông Lạc... Thật là một cuộc "quần anh tụ hội". Ông Tuần không chỉ tổ chức công diễn, mà còn vừa giảng dạy về nghĩa lý, về câu chữ, cùng với các ông Cửu Vị, Quản Lan, Nhưng Đá uốn nắn, dạy dỗ thêm cho diễn viên. Chính nhờ thường xuyên ở cùng với quan Tuần và ông Cửu Vị là người cố vấn chủ yếu, cho nên ông Phẩm học được cả chữ nghĩa thánh hiền lẫn ngón chầu câu hát một cách thật cơ bản. Cậu Phẩm không chỉ học được ở "trường ông Tuần" cách "đội cả 12 cái mũ Tuồng", tức là sắm được mọi vai, có vốn liếng chữ nghĩa văn chương đủ để nghiền ngẫm sâu xa về kịch bản, mà còn nắm được các miếng Tuồng "độc", gia truyền như “Vua đói, Thiện Công”… các miếng tủ của các tài năng khắp nơi về trình diễn và tập dượt. Ở "trường ông Tuần" cậu cũng học được đã "cách xuống ngựa lên xe" của một gánh hát bề thế ở đô thị, học được vẻ uy nghiêm, điệu bộ đài các theo lối sống của các nghệ sĩ phong lưu, tài hoa. Những điều này trở thành một bộ phận không thế thiếu trong tính cách của một ông Chánh Phẩm tương lai.
Ở trường ông Tuần, cậu Phẩm có điều kiện để kết thân với nhiều tài năng trẻ. Lớp trước cậu chơi thân và học được nhiều ở các ông Nhẫn, ông Nhưng Hải, ông Hai Bãi, ông Thủ Nhứt, và đặc biệt là với ông Đệ, người bạn tâm giao tuy hơn cậu đến 10 tuổi, một tài năng kiệt xuất vào hạng "trời sinh". Cùng và kém tuổi cậu chút ít thì có Nguyễn Lai (nghệ sĩ nhân dân - cháu ruột của quan Tuần); có Nguyễn Nho Túy còn gọi là Đội Tảo, hay ông Thủ, nghệ sĩ nhân dân), Phó Lê (Thùy), có Văn Phước Khôi... Một thế hệ nghệ sĩ Tuồng hình thành ở đây quây quần xung quanh cái hạt nhân trung tâm là cặp đôi Đệ - Phẩm, trở thành thế hệ xuất sắc nhất trong lịch sử Tuồng Quảng Nam. Và nếu căn cứ vào mật độ kết tập của tài năng có thể nói không quá rằng đó là thế hệ và môn phái Tuồng xuất sắc nhất trong lịch sử trên phạm vi toàn quốc. Những người ban này, dù có mặt này mặt khác không tương hợp nhau nhưng vẫn là một Lương Sơn Bạc của nghề Tuồng, sống tín nghĩa và quý trọng nhau cho đến lúc âm dương đôi ngả.
Cũng ở Vĩnh Điện đã nảy nở mối tình đầu của chàng trai trẻ tài hoa nhưng còn là vô danh phận. Sau khi ông Cửu Vị mất, cậu Kép trẻ vẫn thường xuyên ở với gánh quan Tuần. Chỉ có hơn năm (khoảng 1919), anh theo Bạch Thái Bưởi ra Bắc diễn tuồng, nhưng có điều gì không vừa lòng với "bà chủ" ông lại về Vĩnh Điện. Tài năng của anh kép như bông hoa mới trổ ban mai, thì cô con gái của quan Tuần, cô Tôn xinh đẹp đã đến tuổi thu hút nhiều cậu Tú cậu Cử, và trong thuở giao thời này, cả những chàng tham, cậu ký trẻ. Hẳn là ông Trần Dĩnh cũng chưa có một quyết định chọn ai làm rễ, nhưng cô gái rượu nhà quan bỗng thình lình si mê anh kép - gia nhân thì là điều không thể chấp nhận được. Ông quan nghệ sĩ tạm gác chuyện liên tài, cứng rắn quở trách cô cậu, nhưng cái bản chất ương ngạnh của tình yêu trong trường hợp này càng mãnh liệt hơn roi đòn của ông Tuần nổi tiếng là nóng nảy. Tuyệt vọng, quan Tuần đuổi chàng kép trẻ. Nhưng đuổi đi là phương kế tuyệt đối vô ích: họ đã quá yêu nhau. Một thời gian ngắn suy tính, tuy không vui quan Tuần đành phải cho người tìm về, đổi giận làm lành, tác thành cho đôi trẻ. Bà Tôn về sau không có cái may mắn về đường con cái, và cả về đường tuổi thọ, nhưng mối tình đó của đôi "tài tử giai nhân" vẫn là một nét đẹp in dấu son vào cuộc đời anh.
Lớp nghệ nhân già lần lượt qua đời, ông Đệ trở thành người lãnh đạo nghệ thuật trong gánh hát ông Tuần Dĩnh. Dưới sự bảo trợ của một ông Tuần Phủ tài hoa, gánh Tuồng phát triển thuận buồm xuôi gió, càng ngày càng có tiếng tăm. Nhưng rồi ông Dĩnh qua đời (1926), ông Đệ lúc đó trở thành Chánh Ca Quảng Nam, thường xuyên mang gánh đi lưu diễn các nơi hơn trước. Đây cũng là lúc Quảng Nam lần lượt ra đời nhiều gánh hát nghiệp dư. Với cương vị Phó Ca, anh Phẩm cùng với Chánh Đệ trở thành đàn anh của nghề Tuồng ở Quảng Nam.
Gánh ông Chánh Đệ tập hợp được nhiều diễn viên giỏi được khắp nơi mến mộ. Nhưng ít lâu sau phải tan. Khi các vùng có thể nuôi sống được gánh hát và thực tế lưu diễn ở nông thôn không thể thuận lợi như ở thành phố, nhiều người muốn tách ra lập gánh hát mới. Có người vì không muốn giữ mãi quan hệ chủ tớ trong quan hệ với bầu gánh cũ, có người có thể làm ăn riêng thu nhập cao hơn. Cũng có người vì những bất đồng, tính toán phức tạp khác. Tuy không có gì xung khắc với ông Chánh Đệ, ông Phẩm cũng cùng với một số người tách thành một gánh riêng. Ông Nhưng Ẩm, một thầy Tuồng cũng khá có tên tuổi ở Tam Kỳ, đem học trò gia nhập vào gánh ông Phẩm. Nhưng gánh này tồn tại cung chỉ vài năm.
Có một nét khá đặc biệt trong lối sống của Phó Phẩm so với các diễn viên đương thời là ông luôn luôn sống khá phong lưu. Là diễn viên nhưng ông không muốn người ta coi thường nghề nghiệp của mình, đi đâu có xe tay kéo, có người theo phục dịch, nằm ngồi đi đứng đàng hoàng. Cả khi làm chủ gánh lẫn sau này đi diễn thuê, thường thường lương của ông Phẩm bao giờ cũng vượt bậc so với nhiều người khác. Nhưng cũng khác với nhiều diễn viên khác trong sinh hoạt, ông cũng không thuộc loại sống bừa bãi. Ông không hút thuốc phiện, điều làm khuynh gia bại sản không ít diễn viên khác. Về tài năng và nhân cách ông được nhiều người mến mộ, quý trọng nhưng Phó Phẩm không tỏ ra dễ dãi, ít nhiều sống cách bực và vì thế nên cũng khiến không ít người khó chịu.
Thành phố Đà Nẵng ngày càng trở thành một trung tâm kinh tế và chính trị quan trọng. Và cũng chính vì thế, các ngành nghệ thuật đều tìm thấy ở đây đất phát triển kinh doanh từ Đại chiến thế giới lần thứ nhất, một ngành nghệ thuật mới ra đời ở các thành phố miền Nam và nhanh chóng ăn khách, lan nhanh ra các thành phố, tỉnh lý miền Trung, miền Bắc: Cải lương. Do nhiều lý do đặc biệt, cải lương được công chúng, nhất là công chúng ở các thành thị thuộc địa như thành thị nước ta lúc đó, ồ ạt hưởng ứng. Cải lương khai thác những chủ đề về đời sống xã hội, lại thỏa mãn xu hướng tình cảm, thỏa mãn tính tò mò và những băn khoăn tìm hiểu của tầng lớp thị dân mới, cho nên nó lôi cuốn người xem, đặc biệt là thanh niên. Sân khấu truyền thống bị đe dọa, Tuồng có nguy cơ mất công chúng. Chánh Đệ, thủ lĩnh thực sự và cũng là thủ lĩnh tinh thần của nghề Tuồng Quảng Nam, nhận rõ mối đe dọa ấy. Ông triệu tập tất cả những gánh hát có tên tuổi, những đào kép nổi tiếng của Quảng Nam tập hợp lại bàn kế hoạch chống lại nguy cơ đó. Kết quả của "cuộc đại hội" là sự ra đời của Quảng Hiệp Ban. Như tên gọi của họ, Quảng Hiệp Ban là đoàn Tuồng kết tinh của toàn bộ nghệ thuật Tuồng Quảng Nam. Ông Phẩm lại trở về cùng công tác với ông Chánh Đệ, trong vai trò phó ca.
Kể từ khi cụ Tuần An Quán về hưu mở trường tuồng, các nghệ sĩ từ các tỉnh khác ở trong nước - đặc biệt là ở Huế Bình Định, vãng lai biểu diễn nhiều, nhưng có lẽ vì một số quan niệm nào đó chưa "thông" nên ở Quảng Nam chưa có đào xuất hiện. Những cô đào thực sự của Quảng Nam chỉ mới tham gia ở vài gánh hát mảnh. Nhưng đào nổi tiếng đầu tiên đều là đào Huế. Sau khi ông Dĩnh mất, các gánh mới nhận các cô gái đất Quảng đóng đào. Sự xuất hiện của các cô đào đã thay chỗ cho nhiều các anh kép tài hoa lâu nay sắm đào. Trong danh sách "tam kiệt", kép đóng đào cực giỏi "Nhất Hích, như Hi, tam Muộn", người ta không thấy có tên ông Phẩm… Nhưng cũng như Hai Bãi, ông Phẩm cũng từng đóng đào nổi danh. Nhưng có lẽ vì cho tới đoạn sau, sự phân công trong tuồng có nghiêm khắc hơn, các vai nổi nhất của kép được coi là “tủ” của từng người, của cả gánh; họ chỉ thực sự là họ trong các vai đó. Tạm biệt vai đào, kép Phẩm nhanh chóng trở thành kép nhất. Tiếng tăm đóng vai kép của phó Phẩm đến khoảng 1928 thì xuất hiện "người cạnh tranh". Cũng không phải ai xa lạ, đó là đội Tảo, người bạn thâm giao, người em kết nghĩa, đã từng đi những bước đầu bỡ ngỡ ở gánh hát ông Tuần, và được chính ông Phẩm "bẻ tay, chỉnh bộ". Ông Phẩm không những không hề tỏ ra ganh tỵ, mà còn dần dần nhường vai kép cho người bạn kém mình vài tuổi đó. Chính ông là người tìm cách giới thiệu tài nghệ của đội Tảo. Một lần, các tỉnh miền Trung tổ chức hội diễn thi tài ở Bình Định, vai kép Quảng Nam cứ hai người đi tham gia: là phó Phẩm và đội Tảo (tức Đội Tảo). Tiếng tăm phó Phẩm thì đã lẫy lừng, nhưng Đội Tảo thì hãy còn vô danh. Phó Phẩm đã giới thiệu đội Tảo đóng thay mình trong một số vai, nhưng ban tổ chức cứ lờ đi. Đây không phải chỉ là chuyện thi tài, chuyện danh dự, mà còn là chuyện kinh doanh lỗ lãi. Họ đã biết đội Tảo là ai, diễn có chắc ăn hay không mà nhận. Đội Tảo ức lắm. Đến hôm sau ông Phẩm giả ốm, và bảo đảm với ban tổ chức rằng cậu "em" mình có thể đảm nhiệm được vai trò của mình.
Bị dồn vào thế bí, ban tổ chức đành đồng ý Đội Tảo ra mắt lần đầu trước khán giả "nước người" như thế. Chỉ sau vài vòng nhào lộn, sau vài cử chỉ, đường múa, tiếng xì xào im bặt. Khán giả hầu như nhịn thở, chứng kiến sự xuất hiện của một tài năng. Và rồi tiếng xì xào lại bùng lên, nhưng giờ đây là tiếng trầm trồ khen ngợi. Ngay trong đêm diễn đó, lời chứng về Đội Tảo "con rồng trên sân khấu" đã được cất lên. Một đêm ấy thôi, Đội Tảo hai lần rơi nước mắt, lần đầu vì ấm ức và lần sau thì vì xúc động. Khi đồng nghiệp các nơi vây xung quanh Đội Tảo hết lời tán thưởng anh, thì cũng là khi anh sực nhớ ra, vội đi tìm phó Phẩm. Trong một góc xa xa, phó Phẩm đang một mình, đứng đó, khóc lặng lẽ. Hoàn toàn vì vui sướng, nhưng ngay cả khi vui, ông cũng không có thói quen để cho người khác chứng kiến sự "yếu lòng" của mình.
Trong Quảng Hiệp Ban, đã hình thành nhóm "hậu ngũ mỹ": Chánh Đệ trong vai lão võ, lão lõa; Phó Phẩm trong vai lão văn; Đội Tảo trong vai kép văn; sáu Lê (Thùy) trong vai kép võ và Sáu Lai trong vai nịnh. Sở trường của mỗi người không giống nhau, tài năng không phải là hoàn toàn cân phân nhau, nhưng nhìn chung, người toàn diện hơn cả trong họ chính là Phó Phẩm. Trừ Chánh Đệ, các vai khác đều do những người kém ông vài ba tuổi đời, dăm bảy tuổi nghề, nên thỉnh thoảng chỗ này chỗ khác, họ vẫn coi ông là đàn anh, hỏi ý kiến ông để hoàn thiện nghệ thuật. Cũng trong Quản Hiệp Ban, sớm có bà Hàn, bà Ngự, bà Thùy, muộn hơn một chút có bà Vĩnh, bà Chua, bà Liễu là những cô đào danh tiếng. Ít nhiều họ có học vai đào ở Phó Phẩm. Tất cả họ đều quý trọng tài năng của nhau và đều có ý nể vì Chánh Đệ, Phó Phẩm.
Quảng Hiệp Ban ra đời tương ứng với giai đoạn tài năng của Phó Phẩm và nhóm "ngũ mỹ" hoàn thiện. Ý thức cao về việc phải duy trì và phát triển Tuồng để cạnh tranh với cải lương, ông đã cố gắng cùng đồng nghiệp chăm lo khai thác tinh hoa của Tuồng truyền thống. Tám năm tồn tại của Quảng Hiệp Ban cũng là tám năm đắc ý nhất trong đời nghệ thuật của ông.
Vào năm 1940, ông Chánh Đệ bị tai nạn rồi qua đời, bà Chánh Đệ thay chồng làm bầu gánh. Ông Phó Phẩm trở thành người chỉ đạo nghệ thuật của đoàn, trở thành Chánh ca Quảng Nam. Giữa hai người nảy nở mối tình mà một số người trong gánh lúc ấy không bằng lòng, đã bỏ đi hát cho gánh khác. Đó cũng là một lý do. Nhưng còn lý do sâu xa hơn làm Quảng Hiệp Ban tan rã là vì một bộ phận của Quảng Hiệp Ban do ông Nguyễn Lai chủ trương, có hẳn một người viết tuồng, ông Tổng Phước Phổ - tách ra thành Tân Thành Ban. Trong số nghệ sĩ nổi tiếng của Quảng Hiệp Ban cũng chỉ còn lại vợ chồng ông Tảo là còn ở lại với ông Phẩm.
Những biến cố chính trị trên phạm vi quốc gia và quốc tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến nghệ thuật Tuồng, Sự có mặt của quân đội Nhật Bản khiến nhân dân một cổ phải đeo hai tròng. Ông Phẩm, tuy không phải là người giác ngộ cách mạng, nhưng đời sống và nghề nghiệp mỗi ngày một khó khăn cũng khiến cho ông trở nên uất ức. Để lấy lòng dân chúng, để lừa bịp quần chúng theo chiêu bài đồng chủng đồng văn và kế hoạch Đại Đông Á, quân Nhật cũng cho diễn và xem Tuồng. Trong số quan lính Nhật, cũng có người thật bụng mê nghệ thuật này và cũng đã có đôi ba cử chỉ của họ tỏ ra ưu ái và trọng thị tài năng của ông Phẩm. Nhưng nhìn chung từ 1940 đến 1945, hoạt động nghệ thuật của Chánh Phẩm trở nên lay lắt.
Những ngày kháng chiến đầu tiên ở miền Trung Trung Bộ lùi dần về quá khứ. Vùng tự do và vùng tạm chiếm đã được phân định rõ rệt qua lại không dễ dàng. Ông Phẩm cùng gia đình đi dần vào các huyện phía Nam, rồi trở lại Hội An trong khi các bạn đồng nghiệp của ông tập hợp nhau lại lập đoàn Tuồng Liên khu Năm. Ở vùng đô thị tạm chiếm, Tuồng không thể cạnh tranh gì được nữa với cải lương, với xinê, với các hình thức sinh hoạt hợp thời khác. Ông Phẩm vẫn còn đi diễn, nhưng là diễn cầm chừng, và là diễn thuê. Điều đau xót cho một nghệ sĩ là khi tài năng đã chín muồi, lại là khi không còn công chúng thưởng thức nữa. Không phải vì ông không còn hấp dẫn được ai. Một lần, trong vai vua đói, ông chỉ lột tả bằng ngoại hình, bằng bộ điệu, mà nhiều người rơi nước mắt. Bỗng có một bà cụ, rưng rưng nước mắt, tay run run bưng lên sân khấu một bát cháo lòng thực sự còn bốc khói trao vào tận tay vua đói. Và vua đói phải ăn "cương" cho khỏi phụ lòng bà lão. Nhưng số người mộ điệu Tuồng cũng thưa thớt dần. Đa số người thành phố thú vị hơn khi giao tiếp với một thứ văn hóa tiêu dùng, không mấy ai quan tâm đến những tình huống bi kịch, những xúc cảm quá cỡ của một thời chưa xa. Bạn nghề tâm đắc đã mỗi người một ngả, còn lại ông thầy Tuồng vòi vọi nhưng cô đơn trong cái cảnh xâm thực tràn lan của cải lương trên sâu khấu kịch hát. Vốn đã ít lời, ông càng trở nên ít lời hơn. Không đủ tháo vát theo thời cạnh tranh tiến hóa của một thành thị thực dụng và thương nghiệp hóa sâu sắc, ông đành phải nhận lời một số bầu gánh đi làm "cố vấn nghệ thuật" mà vai trò nhiều khi lẫn lộn với người làm thuê. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh ấy, ông vẫn có một thoi quen bền vững: chăm chú lắng nghe những nhận xét về trình độ nghề nghiệp của mình và của các học trò, đồng nghiệp. Tính ông vốn đã thế. Trong xử sự, thì tự tôn tự trọng, nghiêm nghị đến quan cách, nhưng khi người ta nói với ông về nghệ thuật, thì dù người nói chỉ là một bà hàng xén, hay một anh giáo làng, một công chức chỉ có mẫn cảm nghệ thuật chứ không có tay nghề, ông vẫn vui vẻ ghi nhận. Có người nói ông khôn ngoan, nhưng có phần chắc chắn hơn là ông luôn luôn công bằng và tỉnh táo trong đánh giá. Không chỉ đối với những người mẹ ông ưa chuộng, kết thân thì ông mới đánh giá cao mà ngay cả những người có ác cảm cá nhân về lối sống, về thái độ, ông vẫn có những nhận xét công bằng về nghệ thuật của họ. Ít người thấy ông phản đối người tiếp chuyện mình trong vai trò thông tin phản hồi. Tự tin, và tự tin đến mức gần như cao ngạo, ông vẫn không bao giờ đóng cửa tự đắc. Có lẽ ngay từ rất sớm, ông đã có một trực giác về sự công bằng khi nhìn nhận nhìn nhận các tài năng. Đủ sức vào tất cả mọi vai, và vai nào cung diễn có thần, cũng ít nhiều có tìm tòi sáng tạo, nhưng khi thấy có người nào đó, hoặc do ngoại hình phù hợp hơn với vai mình đang thủ, hoặc có thể khai thác được nét đặc trưng của tính cách nhân vật hơn mình, thì không những ông nhường vai, mà còn đem cả những điều sở đắc của mình ra dạy lại cho người đó. Dễ hiểu vì sao tất cả những người đã cùng nhau về đức độ đó của ông. Diễn với ông, cùng được học thêm với ông đều có nhận xét giống nhau về đức độ đó của ông.
Nhưng rồi ông cũng không tránh khỏi những điều bất bình ngay cả trong số những người vốn là học trò của mình. Bên cạnh nghề Tuồng mà họ kém ông, họ có cái nghề bầu gánh mà họ tháo vát, giỏi xoay xở hơn. Bên cạnh nghệ thuật còn có tiền bạc. Có lúc, có nơi, ông bị đánh giá oan. Nhưng đáng giận hơn là có những người học trò cũ, thuộc hàng đàn em khá xa đã ngoi lên địa vị ông chủ, và quay lại đối xử bất công với ông. Trong vở diễn, họ phân cho ông những vai không sở trường, còn những vai ông lẫy lừng thì họ tự giành lấy hay giao cho người khác. Sự cố tình lộ liễu như là sự thách thức, như là sự nhạo bán đó đã diễn ra trong khi ông đi làm công cho Ý Hiệp miền Trung. Hầu như người ta chỉ chờ ông phản ứng. Và ông cũng đã phản ứng: cùng vài người học trò trung thành, ông bỏ đoàn ra về.
Kháng chiến chống Pháp kết thúc. Hầu hết những người bạn nghề đã theo cách mạng làm cán bộ văn nghệ, hoặc ít nhất cũng do điều kiện tản cư mà ra vùng tự do, cùng quyết định tập kết. Nặng gánh gia đình, và tự thấy mình cũng chưa làm được gì để dự vào hàng cán bộ tập kết, ông không đi cùng với bạn. Và điều đó để lại những day dứt sâu sắc trong đoạn đời còn lại. Khác với các bạn mình, khi ra Bắc trở thành những nghệ sĩ tên tuổi, được tôn trọng, được tạo mọi điều kiện để bảo vệ và phát triển nghệ thuật, ông "vua Tuồng" trên sân khấu miền Nam hầu như sống quẩn quanh. Một vài đoàn hát nhỏ pha cải lương, pha kịch nói mời ông góp sức chút ít. Vậy thôi. Suốt hai mươi năm tồn tại của chế độ Mỹ ngụy ở miền Nam, Nghệ thuật Tuồng chưa có lấy một ngày bừng sáng trở lại. Già, cô độc, ông rút về sống âm thầm với vợ con, và ngay cả với vợ con, trong thân phận không quyết định đời sống kinh tế như trước, tiếng nói của ông cũng không có nhiều trọng lượng. Con ông, cùng lắm thì cũng chỉ biết hát dăm ba làn điệu. Bây giờ thì ông không cần cấm đoán như thân sinh ông đã từng cấm đoán ông, họ cũng đã tự động "giải nghệ".
Tuổi 75 tới đúng vào lúc toàn miền Nam giải phóng. Mừng tủi đón các bạn trở về, ông Phẩm vẫn có một tâm sự ngậm ngùi và tâm thầm day dứt. Ngay khi Đà Nẵng vừa giải phóng, đồng chí Bí thư tỉnh ủy đã cho người lặn lội tìm ông chánh ca Quảng Nam. Ông có thể đứng bên lề cách mạng, nhưng cách mang không trách cứ, mà cũng không bỏ rơi ông. Gặp lại bạn bè vào tuổi tất cả đều đã dự vào hàng "xưa nay hiếm", ông chợt nhận ra mình đã phí hoài cả một đoạn đời vô ích. Không kịp nữa rồi. Nhưng quá muộn vẫn còn hơn không có gì cả. Ông vui dần trở lại. Sở Văn hóa, tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân, rồi Bộ Văn hóa liên tục cử người vào thăm hỏi ông, động viên ông. Dần dần ông hiểu đó là tấm lòng nhân dân, đó là tiếng nói của một đường lối nghệ thuật chân chính. Năm 1978, ông được mời ra Hà Nội biểu diễn, rồi vào Sài Gòn, rồi hội diễn Bình Định… Đến lúc đó, ông mới thực sự xót xa, tiếc mình đã già, đã quá già rồi.
Chỉ vài lần biểu diễn khi làn hơi đã xấu, gân cốt đã bạc nhược, giọng đã đục, thế mà người xem vẫn còn có dịp hiểu thế nào là nghệ thuật là tài năng. Vài lần cùng tham dự diễn chung, ông đã để lại những ấn tượng đậm nét về tài nghệ cho các diễn viên đoàn Tuồng Trung Ương. Anh Minh Ngọc, chị Kim Cúc và nhiều diễn viên khác vốn là học trò của các nghệ sĩ nhân dân Ngô Thị Liễu, Nguyễn Nho Túy, Nguyễn Lai… vốn đã từng nghe các bậc sư phụ của mình nói về Chánh Phẩm, nay được tiếp kiến, mới thực hiểu lý do vì sao những nhân vật lỗi lạc trong nghề lại có thể tôn trọng con người này sâu xa nhường ấy.
Đúng là ông hiểu nghề và làm nghề không phải chỉ từ trong máu, mà làm trong gân cốt. Những pha diễn, những miếng Tuồng diễn để khai thác, như trích đoạn “Sơn hậu, Vua Đói, Bao Công xử án” đã phục hiện trở lại một Chánh Phẩm lẫy lừng, quả là "danh bất hư truyền". Một người bạn vong niên, một người không có may mắn theo nghề Tuồng đến cùng, nhưng cũng là một trong những cụ già hiếm hoi trên đất Quảng Nam Đà Nẵng còn đến hôm nay, một vốn liếng nghệ thuật Tuồng gia truyền, nói ra một so sánh thú vị: "Anh Tảo giỏi hết mọi vai, nhất là các vai kép. Có những vai diễn được ưa hơn cả anh Chánh, nhưng nếu so sánh hai anh thì có thể nói thế này: bàn tay có năm ngón, Anh Tảo giỏi cả năm, còn anh Chánh giỏi chính cái cổ tay và lòng bàn tay đó".
Cụ Phẩm đã 86 tuổi, Nhà nước đã bày tỏ sự kính trọng và ghi nhân một tài năng thuộc về nhân dân bằng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Nói như Bô-đơ-le, nghệ thuật thì dài mà cuộc đời thì quá ngắn". Cụ vẫn còn tiếc, rất tiếc là không thể lên sân khấu được nữa. Việc uốn chân bẻ tay cho lớp diễn viên con cháu cũng không thể thường xuyên được nữa. Một kho tàng chưa kịp khai thác đang mất đi. Chúng ta cùng tiếc với cụ và còn tiếc hơn cả cụ.
BÀI VIẾT SƯU TẦM TỪ TƯ LIỆU "TUỒNG QUẢNG NAM XƯA VÀ NAY"