 
		NSND NGUYỄN LAI
- Tên thường gọi : Sáu Lai
- Năm sinh: 1902
- Năm mất: 10.10.1982
- Quê quán: An Quán, Điện Bàn, Quảng Nam - Đà Nẵng
Bác Tống Phước Phổ là một nhà hoạt động Tuồng lâu năm, đồng thời là bạn bác Nguyễn Lai - có lần nói về bác Lai như sau: "Một phần trăm thiên tài mà trở thành thiên tài". Còn chính bác Nguyễn Lai thì đúc kết cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình bằng một câu tục ngữ giản dị, hàm súc và quen thuộc: "Có công mài sắt có ngày nên kim”. Tài năng đối với bác Nguyễn Lai đúng là do rèn luyện mà có, rèn luyện cần cù và đúng hướng. Ngày nay, nói đến bác Nguyễn Lai, giới hâm mộ tuồng nghĩ ngay đến những vai nịnh do bác sắm. Công chúng yêu tuồng ở Quảng Nam trước đây đã xếp bác vào một trong năm nghệ sĩ xuất sắc nhất của tỉnh gọi là "Ngũ mỹ" (năm vẻ đẹp), gồm lão võ: ông Đệ; lão văn: ông Phẩm; kép: ông Tảo; tướng: ông Thủy và nịnh: ông Lai. Nói cho đúng vai nịnh là một sáng tạo độc đáo của bác Nguyễn Lai, không ai sánh kịp. Nhưng ngoài vai nịnh ra, bác còn đóng tốt một số vai khác, bác còn là người viết vở, chỉnh lý các vở tuồng cổ, là một người có nhiều kinh nghiệm trong việc giảng dạy và nghiên cứu nghệ thuật tuồng.
Xuất thân trong một gia đình quan lại cấp thấp, và là con vợ lẽ, nên cậu bé Nguyễn Lai trong tuổi ấu thơ của mình cũng chẳng có gì gọi là may mắn. Hồi nhỏ, cậu ít được đến trường học, mà chủ yếu học ở nhà với cha. Cậu học chữ Hán. Quê cậu, làng An Quán, huyện Điện Bàn, một làng ven quốc lộ - cách tỉnh lỵ chừng vài cây số. Sông Chợ coi là một nhánh của sông Thu Bồn chảy cạnh làng, nên làng cậu nói chung sầm uất. Cái ấn tượng sâu sắc nhất của cậu bé về quê hương mình là giọng hò của những người lái đò dọc, chở mía, mật, củi gạo ra bán ở chợ tỉnh cất lên trong những đêm thanh vắng và tiếng trống tuồng thúc dục những dịp làng tổ chức diễn tuồng vào lễ xuân kỳ thu tế, hay khi trong làng có người đậu đạt ra làm quan, hoặc có người được thăng phẩm hàm chức tước. Trong những dịp ấy, dù đám hát có cách làng đến vài ba cây số cậu cũng rủ đám trẻ trong làng đi xem cho bằng được. Cậu nhờ có một lần ở làng bên diễn tuồng Ngũ Hổ, trốn nhà đi xem. Vở diễn hay quá, cậu xem mê mãi, đến lúc tan diễn thì đã quá nửa đêm, nhưng cậu vẫn nấn ná ở lại xem gánh hát thu dọn đồ nghề, quần áo. Đến lúc chợt nhớ ra là phải về thì người làng đã về hết từ bao giờ. Đêm đông lạnh, trời tối đen như mực, cậu vừa cắm đầu cắm cổ chạy, vừa sợ ma đuổi theo sau. Bỗng nhìn thấy phía trước có ánh lửa trong một ngôi nhà cạnh đường, cậu ghé vào nghỉ cho đỡ sợ. Bác chủ nhà nướng sắn, mời cậu bé ăn. Cậu ăn ngon lành, được sưởi ấm, hết mệt. Sực nhớ tích tuồng vừa xem, cậu thấy ngứa ngáy tay chân, cậu đứng dậy bên cạnh đống lửa, hát luôn mấy câu giáo đầu của Lưu Khánh, và cảm thấy như chính mình là Lưu Khánh, một viên tướng đang cầm quân ra trận. Và cứ thế, trong cái oai phong của ông tướng ấy, cậu quên cả chào bác chủ, chạy một mạch về đến nhà không thấy sợ ma sợ quỉ gì hết. Cố nhiên là sáng hôm sau cậu đến trường muộn, và không thuộc bài, nên cái roi mây của thầy lại có dịp được dùng tới tấp.
Bác Lai kể bác không còn nhớ lúc bé bác đã phải chịu bao nhiêu trận đòn vì mê xem hát như thế. Nghệ sĩ Nguyễn Lai đã đến với nghệ thuật tuồng không phải với một tài năng bẩm sinh mà chính với cái lòng say mê ấy.
Cậu bé Lai lớn lên một tý thì mồ côi cha. Cậu đến ở nhà ông bác ruột là Nguyễn Hiển Dĩnh để ăn học. Nguyễn Hiển Dĩnh là một nhà nho nổi tiếng của đất Quảng. Ông ra làm quan nhưng lại rất mê hát tuồng. Ông vừa soạn tuồng, vừa dựng vở. Và lúc về hưu ông tổ chức cả một gánh hát để biểu diễn (1). Cậu Lai sống trong nhà của bác, ra vào gần gũi với các đào - kép diễn viên, cậu thường xuyên xem họ luyện tập, biểu diễn hết ngày này qua tháng nọ. Thấy đứa cháu của mình mê tuồng, lại có chữ nghĩa, ông Dĩnh cho cậu làm chân nhắc vở. Cậu thích thú và làm việc hết sức nhiệt tình. Các diễn viên thấy cậu hăng hái họ cũng thích bày vẽ cho cậu hát múa. Ai cũng nghĩ dạy cậu cho vui chứ không ai tin cậu sẽ làm tuồng như họ, vì cái nghề "xướng ca" ấy làm sao thích hợp với con cháu của những gia đình bề thế. Về phần mình, cậu bé cũng cảm thấy mặc dù mình say mê tuồng đến thế, nhưng chắc không bao giờ cậu có thể diễn tuồng như các chú, các bác được, vì cậu có những nhược điểm bẩm sinh khó khắc phục như giọng hát của cậu thường bị chênh, không có hơi, nét mặt lại cứng nhắc, không thể hiện sinh động được những vai diễn. Nhưng cậu cảm thấy trở ngại nhất là đôi mắt. Trong nghệ thuật tuồng, đôi mắt là một yếu tố biểu diễn hết sức quan trọng. Đôi mắt để trông, để ngắm, để liếc, để nhìn, để bày tỏ niềm vui, nổi giận. Trong khi đó, mắt cậu lại quá nhỏ. Làm thế nào được. Có lần một anh kép của ông Dĩnh bảo cậu tập thử đôi mắt cho anh xem. Anh bảo cậu giương mắt to lên, to nữa, to nữa… Cậu đã cố dương mắt hết cỡ như muốn rách khóe, đến ứa cả nước mắt nhưng anh vẫn lắc đầu: "Mi không mần tuồng được mô". Câu nói làm cậu thất vọng. Nhưng chẳng lẽ lại chịu thua ? Không! Thế là cậu lại cố luyện tập một mình. Hàng ngày, cậu soi gương, mở mắt cho thật to, rồi tập biểu lộ tình cảm qua đôi mắt. Quả thật mắt cậu chiều cao hẹp quá, đuôi mắt lại dày, đưa qua đưa lại chậm chạp, nặng nề. Cũng may là đúng lúc ấy cậu được gặp ông Quyền Ngữ, một diễn viên tuồng nổi tiếng, có đôi mắt biết nói. Người ta bảo có lần ông Quyền Ngữ ra Huế diễn tuồng Giang Tả cầu hôn, ông đóng vai Tôn Quyền. Đôi mắt giận dữ của Tôn Quyền đêm ấy không ai có thể quên được. Ông vừa ra sân khấu liếc mắt một cái là người xem thấy ngay tính cách của Tôn Quyền. Chính qua lần diễn ấy ông được tặng danh hiệu là Bích Nhãn Nhi. Ông Quyền Ngữ ở nhà ông Dĩnh thấy cậu bé lúc nào cũng có vẻ lo lắng về đôi mắt không diễn được tuồng, ông hứa sẽ giúp cậu luyện mắt. Thoạt đầu ông đưa ngón tay qua lại trước mắt cho cậu trông theo. Trước chậm, sau nhanh dần để cho đôi mắt linh hoạt. Như thế gọi là tập luân. Hết tập luân đến tập trợn tập trừng, rồi tập ngó, tập nhìn, tập liếc... Nhưng đâu phải chỉ có tập mắt. Con mắt đi liền với cái mũi, rồi miệng, gò má, lông mày... Thế là phải tập cả mũi, miệng, gò má, lông mày. Tập riêng từng bộ phận rồi phối hợp các bộ phận lại. Chẳng hạn muốn khóc trước hết phải làm cho nhỏ mũi lại để gợi nét buồn. Mũi nhỏ thì lông mày chau và mắt phải nhíu lại. Rồi nghĩ đến việc gì đó đáng khóc, cặp mắt lại phải đờ đẫn và nước mắt lã chã tuôn rơi... Còn trái lại, tỏ sự giận dữ thì hai đầu lông mày phải chau lại, lỗ mũi hĩnh lên và đôi mắt gườm gườm v.v… Cậu phải tập như thế hết tháng này qua tháng khác. Rồi từ chỗ tập kỹ thuật, cậu tiến lên tập biểu hiện những tình cảm, tâm lý phức tạp. Tập mắt được rồi, cậu chuyển sang tập hát, tập điệu bộ. Cậu tập hát cũng vất vả không kém. Giọng cậu chênh, hơi không tốt, tập mãi mà chẳng thấy tiến bộ, có người ghét, nói mỉa "Xưa nay có ai nhắc tuồng mà lại hát tốt bao giờ. Có tập thế, chứ tập nữa cũng uổng công, vô ích". Nhưng cậu không nản. Khó như đôi mắt mà tập mãi còn được, thì cái gì kiên trì rồi cũng sẽ tập được. Cậu tự động viên mình. Hàng ngày, hễ có dịp là cậu tranh thủ chăm chú nghe cách các cô các chú đào kép hát để rút kinh nghiệm, bắt chước. Ai nhiệt tình dạy cho cậu câu gì cậu hát câu ấy. Chỉ hai câu hát nam của Triệu Khánh Sanh trong vở “Diễn võ đình” của Đào Tấn: Xắn tay lần gỡ mối sầu - Tóc lau đã trỗ trên đầu hùng anh
mà cậu luyện đến hàng năm trời vẫn cứ thấy chưa ổn. Có lúc ngủ mê cậu cũng cất tiếng hát. Nhưng rồi dần dần cậu cũng hát được hết tất cả những làn điệu của tuồng từ hát nam, hát khách, đến xướng, thán, oán, đến các bài nồi niêu... Hết hát, lại tập sắm vai... và cứ thế từng bước cậu đi vào nghề.
Năm 1922, nghệ sĩ Nguyễn Lai tròn 20 tuổi, anh bắt đầu tập tò lên sân khấu biểu diễn. Hồi ấy, gánh hát thường đi diễn lưu động ở nông thôn. Mỗi đợt diễn mấy ngày liền, diễn viên thường mệt mỏi, thiếu ngủ. Nhân đó anh xin đóng thay cho họ và hứa nếu diễn được thưởng tiền sẽ không lấy, mà trả cho người nào gánh hát giao đóng vai ấy. Thế là anh được tha hồ diễn. Anh sắm tất cả các vai từ Linh Tá đến Tử Trình, Đổng mẫu, Tạ Ôn Đình, Địch Thanh, Đào Phi Phụng, Quách Thượng Dõng, Quách Thượng Nguyên. Vì nhiều năm làm công việc nhắc vở nên anh thuộc lầu các vai này, lại được xem các đào kép diễn đi diễn lại nhiều lần nên khi diễn anh làm trôi chảy, thậm chí có chỗ còn có phần sinh động, linh hoạt hơn cả diễn viên chính nữa. Tiếng đồn Sáu Lai diễn tuồng đến tai ông Nguyễn Hiển Dĩnh, khi ấy đã về hưu làm anh lo lắng, sợ bác mắng mỏ. Nhưng trái lại, ông Dĩnh không mắng mà còn khuyến khích anh đã học nghề thì phải học đến nơi đến chốn. Anh Lai nghe nói mừng như mở cờ trong bụng. Một lần, muốn xem cho biết nghề tuồng của cháu đến đâu, ông Dĩnh bắt gánh tuồng diễn vở Nhạc Phi phá Lỗ và bảo anh Lai sắm vai Vương Hoành. Ban đầu nghe nói phải diễn cho bác xem, anh Lai lo lắng, nhưng sau nghĩ kỹ anh thấy phấn khởi, bởi vì được diễn cho bác xem để bác nhận xét, chỉ bảo cho chỗ mạnh, chỗ yếu thì còn gì hơn nữa. Thế là anh hào hứng bước lên sân khấu. Đêm diễn ấy không thấy ông Dĩnh bịt mũi quay mặt đi, mà ông lại có vẻ thưởng chầu hào phóng hơn thường lệ. Cho nên khi diễn xong, mọi người đều chúc mừng anh. Riêng anh Phẩm, lúc bấy giờ đã là một kép nổi tiếng, nói với anh một cách cả quyết: “Xưa nay có ai lại con hát mà cha khen hay. Bữa ni chú hát ông đánh chầu nhiều rứa là khen chú lắm đấy. Từ giờ trở đi chú tha hồ mà hát”.
Có thể nói sau đêm biểu diễn cho ông bác Nguyễn Hiển Dĩnh xem ấy, anh Lai mới thực sự tin rằng từ nay có thể làm nghệ thuật được. Dạo ấy anh Lai hay đóng đôi với anh Tảo. Hai người diễn rất ăn ý với nhau. Hai anh thường cùng với anh Phẩm lớn tuổi hơn trao đổi nghề nghiệp. Năm 1927, anh Lai 27 tuổi, đã nổi tiếng ở Quảng Nam, về nghề anh đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm, nhưng anh vẫn không thỏa mãn. Kiểm điểm lại mình, anh thấy mình đóng được rộng vai, nhưng xem xét kỹ anh thấy thật chưa có vai nào độc đáo, gây ấn tượng sâu sắc cho khán giả. Trong giới tuồng ở Quảng Nam, ông Đệ đã nổi tiếng với vai lão võ, ông Phẩm thì nổi tiếng vai lão văn; đến anh Tảo, anh Thùy, người bắt đầu nổi tiếng với vai kép, người bắt đầu nổi tiếng với vai tướng... Còn anh ?... Tự nhiên anh Lai nghĩ đến vai nịnh. Tại sao chưa có người nào sắm nịnh đạt cả nhỉ ? Anh có cảm tưởng hình như mọi người không thích sắm vai nịnh một cách tử tế. Tâm lý của nhiều người diễn viên thường vẫn thích đóng những vai nào được người xem yêu mến, dù là trên sân khấu, họ vẫn cứ thích những nhân vật tô mặt đẹp, cân đai, áo mão đàng hoàng, đi đứng, nói năng đường bệ, dõng dạc, chứ không ai thích bôi mặt xấu xí, cử chỉ khúm núm, luồn cúi đê hèn ? Cho nên những nhân vật nịnh trên sân khấu thường có tên tuổi, có địa vị, chức tước hẳn hoi mà vai nào cũng giống vai nào. Hễ là nịnh thì mặt mốc, râu lởm chởm, bụng phệ, tay phe phẩy cái quạt, với người trên thì co ro, khúm núm, với kẻ dưới thì quát nạt, khoát lác. Đôi khi có những người đóng nịnh còn có những cử chỉ thô lỗ, lố lăng, kệch cỡm. Thực ra, các bậc thầy của nghệ thuật tuồng đâu có nghĩ như vậy. Chính các vị đã từng phân biệt loại nịnh gốc như Cát Thượng Nguyên, với loại nịnh mụt như Trương Vô Khiếp, rồi nịnh chảu như Tạ Kim Ngô, mỗi loại một vẻ, có ai giống ai ? Vả lại trong nghệ thuật biểu diễn, muốn hay thì các vai phải hay đồng đều chứ làm sao vai này hay mà vai kia lại dở được. Đóng nịnh mà dở thì nhất định sẽ làm ảnh hưởng đến các vai khác, không thể xuất sắc được. Và nói cho cùng thì vai gì chẳng là nghệ thuật. Vai gì mà đóng hay thì đều có giá trị, đều là nghệ thuật cả. Nghĩ như vậy, anh Lai quyết tâm đi sâu vào vai nịnh. Dựa vào kinh nghiệm sống của mình, anh Lai thấy chính bọn nịnh mới mỗi đứa một vẻ. Cùng là phô mã cả nhưng vai nịnh Lý Thông xuất thân từ một anh bán rượu, thì ngôn ngữ, cử chỉ không thể giống với một phò mã xuất thân quý tộc. Tạ Kim Hùng là một tên du đãng, vô học, dù sau này hắn có làm quan, trông ra vẻ oai vệ, nhưng cái chân tướng du đãng của hắn vẫn thấy rõ mồn một. Chẳng thế mà ngày xưa các cụ lại phân ra nhiều loại nịnh! Nịnh gốc là loại xấu từ trong bản chất, tính cách của hắn nham hiểm độc địa, thâm sâu; nịnh mụt - là loại gặp thời gặp vận thì làm càn, không tính toán nhiều; còn nịnh chảu thì lại nông nổi, thiếu cơ mưu... Bác Lai đã sắm nhiều vai nịnh trong nhiều vở tuồng truyền thống và nổi tiếng là người đóng nịnh hay nhất. Bác còn nhớ vai nịnh thành công đầu tiên và bác đã bỏ ra nhiều công sức để luyện tập là vai Trương Vô Khiếp trong vở “Giác oan”. Lúc nhận sắm vai này, bác đã đọc đi đọc lại vở tuồng có đến hàng trăm lần để hiểu cho thật kỹ tính cách của nhân vật, rồi phân tích các tình huống hành động của nhân vật để xử lý cho thích đáng. Chẳng hạn lúc hội triều, Vô Khiếp là thái sư, đi ra cùng các quan, nhưng hắn lẻn lên trước đứng bên trái sân khấu, cầm quạt đưa cao phe phẩy làm nhịp, dáng thung dung. Thấy Lưu Đình Kiên là ngoại tổ của Nhất Điện ra, hắn khom người vòng tay cúi chào mời ngồi ra vẻ tôn kính người bề trên. Xong y quay xuống, đổi giọng to vẻ hách dịch mời các quan khác ngồi. Suốt buổi hội triều, hắn nói năng khi lễ độ, mềm dẻo, khi úp mở, xảo quyệt, khi trắng trợn đe dọa. Cặp mắt của hắn luôn luôn ngó hết người này đến người khác để che đậy, dò tìm, tấn công. Cái quạt trên tay lúc xòe ra che mặt như người muốn dấu mình trong khi nói, lúc gấp lại như để nhấn mạnh một điều gì đã quyết, không thay đổi được. Cho đến khi Lưu Đình Kiên buộc phải nhận lời ra trấn ở quan ải và giận dữ bỏ về, nghĩa là đã mắc mưu hắn, với một tâm trạng hí hửng đắc chí của một kẻ tiểu nhân, hắn cúi khom người còn thấp hơn trước để chào Lưu Đình Kiên, và chờ cho Lưu Đình Kiên đi khỏi, hắn mới ngẩng mặt lên cười "ha, ha, ha, ha. Tiếng cười không che dấu được, tiếng cười lần này đúng là thốt ra từ gan ruột của tên gian thần... Lần nào biểu diễn Giác oan, bác Lai cũng được người xem trầm trồ, khen ngợi. Có người còn nhận xét, góp ý với bác chi tiết này, chi tiết nọ, bác đều lắng nghe, rút kinh nghiệm, cho nên lần sau bác diễn thành công hơn, xuất sắc hơn lần trước. Bác còn có những kỷ niệm lý thú khi đóng những vai nịnh khác như vai Trụ Vương trong vở “Phong Thần”, trùm Sò trong vở “Nghêu - Sò - Ốc - Hến”. Chính qua thực tiễn biểu diễn, dần dà bác nhận ra rằng vai nịnh lại thường đi đôi với tiếng cười, và trong tuồng nói chung tiếng cười có một vị trí hết sức quan trọng trong nghệ thuật biểu diễn. Tuồng là một nghệ thuật có tính chất cách điệu nên tiếng cười trên sân khấu cũng có tính chất cách điệu. Nhưng dù cách điệu như thế nào thì tiếng cười của kẻ nịnh cũng khác với tiếng cười của người trung, tiếng cười của người già khác với tiếng cười của người trẻ. Người đau khổ có tiếng cười khác với người sung sướng, rồi lại có thứ cười mà khóc, khóc lại cười v.v... Dần dà bác đúc kết được hai mươi chín kiểu cười khác nhau trong nghệ thuật tuồng. Bác phân tích riêng đối với những nhân vật thanh niên chẳng hạn, tiếng cười của nó cũng lắm cung bậc. Thanh niên tính điềm đạm, hiền lành, thì giọng cười không vang lắm, bác dùng hơi miệng. Thanh niên tính vui nhưng cứng cỏi thì giọng cười lớn hơn, hơi có hột, người cười làm chủ được tiếng mình cười. Còn thanh niên tính vô tư cởi mở, rắn rỏi thì cười rộ lên nghe rất vang, rất khỏe. Cách cười là phải lấy hơi vào bụng rồi như phun hơi ra. Bác có nhận xét là tiếng cười của những kẻ nịnh thường giống với tiếng của súc vật hú. Chẳng hạn tiếng cười của Thượng Dõng khi ve vãn Liễu Nguyệt Tiêm nghe như tiếng dê kêu.
Cô gái đẹp, đẹp ... hé hé, hé hé hé, hé hé hé... Còn tiếng cười của Trụ Vương khi gặp Đát Kỷ trong lúc say vừa sống sượng mà vừa dâm đãng, phát ra o o từ cổ họng lại giống tiếng gà trống: Nàng tựa rắn mồng năm lật lật - Ta như gà ức độ o o…
Đối với Trư Bát Giới, Đổng Trác thì tiếng cười cứ ịt ịt, è è nặng nhọc như tiếng lợn ỷ; Lôi Phong, Lôi Nhược thì tiếng cười hí hí như tiếng ngựa v.v...
Có thể nói tri thức và vốn sống đã giúp bác thành công trong nghệ thuật của mình. Năm 1927 trước những ảnh hưởng mạnh mẽ của cải lương, tuồng bắt đầu có những bước đi chệch choạc. Bác Lai từ giã gánh hát ông Chánh Đệ, bác cùng bác Phẩm lập một gánh riêng ở Tam Kỳ để giữ vững phong cách diễn tuồng truyền thống và đào tạo lớp đồng ấu nối nghiệp nhưng không sống nổi, gánh hát tan rã. Bác Lai về quê học nghề làm thuốc. Cuối năm 1933, triều đình Huế đòi các chánh phó ca Quảng Nam tuyển chọn diễn viên tuồng ra Huế hát để lấy tiền giúp nạn lụt ở Nghệ An, bác Lai được gọi tham gia gánh hát đó và bác lại tiếp tục hoạt động cho tuồng. Một kỷ niệm ấm lòng đối với bác là chính giai đoạn này bác đã thành gia thất với một nghệ sĩ Tuồng nổi tiếng lúc bấy giờ là bác Ngô Thị Liễu quê ở Quảng Trị. Năm 1940 thấy Quảng Hiệp Ban, một gánh tuồng rất có bề thế chống lại ảnh hưởng của cải lương quá chật vật, bác suy nghĩ và nhận ra một điều: cuộc sống đã đổi khác, Tuồng dù có muốn cũng không thể giữ nguyên như cũ được, mà phải cải tiến nó. Bác Ngô Thị Liễu rất tâm đắc với quan niệm ấy của bác, nên hai người đứng ra lập gánh hát Tân Thành Ban. Cái tên của gánh hát đã nói lên dụng ý của người sáng lập ra nó. Mỗi buổi diễn Tân Thành Ban có đôi câu đối bằng chữ Hán dán hai bên sâu khấu: Tân thời khởi cảm xu trì hậu - Thành sự duy bằng táng trợ đa (Tân thời há dám chùn chân lại. Thành sự còn mong giúp sức nhiều).
Tân Thành Ban đi diễn ở nhiều tỉnh ngoài Quảng Nam, từ Đà Lạt cho đến Nghệ An. Về sau, bọn mật thám Pháp nghi có "bàn tay cộng sản" nên không cho gánh lưu diễn ngoài tỉnh nữa.
Cách mạng tháng Tám rồi kháng chiến chống Pháp, bác Lai cũng hoạt động Tuồng, nhưng hoàn cảnh kháng chiến khó khăn, việc biểu diễn không được thuận lợi. Năm 1953 trong vùng kháng chiến, báo viết vở tuồng Chị Ngộ, lấy đề tài ngay trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Vở Chị Ngộ được đội tuồng Liên khu 5 biểu diễn và được người xem hoan nghênh nhiệt liệt. Bác Lai vừa là tác giả, vừa sắm một vai trong vở. Đầu năm 1954, vở tuồng được giải khuyến khích giải thưởng Phạm Văn Đồng của Hội văn nghệ Liên khu Năm, và sau khi hòa bình lập lại trong đại hội văn công toàn quốc năm 1956 vở được giải ba.
Hòa bình lập lại, bác Lai tập kết ra Bắc. Bác vừa hoạt động ở Đoàn Tuồng Liên khu Năm, vừa đảm nhiệm công việc đào tạo ở trường Nghệ thuật sân khấu với cương vị Chủ nhiệm Khoa Tuồng. Tuổi cao nhưng bác vẫn tham gia biểu diễn, vẫn tiếp tục học hỏi để nâng cao trình độ. Ngoài ra bác còn cùng với những nhà nghiên cứu Tuồng nghiên cứu, chỉnh lý lại một số vở tuồng cổ như “Ngọn lửa Hồng Sơn, Trảm Trịnh Ân, Nghêu - Sò - Ốc - Hến”…
Bác về lại quê sau ngày miền Nam giải phóng. Tuổi đã cao nhiều, sức khỏe giảm sút, nhưng bác vẫn hết sức cố gắng giúp đoàn Tuồng Phương Nam và sau đó là đoàn Tuồng Quảng Nam Đà Nẵng trong việc đào tạo diễn viên, dàn dựng lại các tiết mục cổ. Những ngày cuối đời, bác hay ốm đau phải nằm bệnh viện. Giáo sư Hoàng Châu Ký một lần đến thăm bác ở bệnh viện tỉnh, sau khi hàn huyên mọi chuyện, bác tâm sự: “Ngày xưa tôi có học thuốc, nên tự bắt mạch cho mình được. Tôi biết tôi sắp đi rồi. Mong anh và anh em ở lại cố giữ lấy nghề Tuồng của cha ông. Để nó mai một đi thì tiếc lắm! Anh ra Huế, cho tôi gửi lời thăm các anh em ngoài đó”. Giáo sư Hoàng Châu Ký ra Huế công tác được mấy hôm thì nhận được tin bác Nguyễn Lai qua đời ngày 10 tháng 10 năm 1982.
BÀI VIẾT SƯU TẦM TỪ TƯ LIỆU "TUỒNG QUẢNG NAM - XƯA VÀ NAY"




 
				 
				 
				 
				 
				 
				 
				 
				 
				 
				 
						 
						 
						 
						 
						