
NHÀ VIẾT KỊCH TỐNG PHƯỚC PHỔ
Năm sinh: 1902 - Năm mất: 1991
Quê quán: An Quán - Điện bàn - Quảng Nam
Xong bữa điểm tâm, cụ Dĩnh ra ngồi gấp bằng trên bộ phản gỗ kê giữa nhà, vừa uống trà vừa nhìn ra sân, chờ đợi. Cụ cảm thấy tâm hồn thơ thới, dễ chịu.
Gió mai thoang thoảng làm cho cây lá khẽ lay động. Ánh nắng sớm đầu thu chiếu qua cành xoan, khóm chuối, rọi thẳng vào hiên nhà. Bóng cành xoan, khóm chuối múa nhảy trên nền hiên.
Cụ Dĩnh mặc áo dài the cũ màu lam nhạt, bên trong là bộ đồ lụa tơ tằm cũng đã cũ. Cụ để đầu trần, cắt tóc ngắn. Người ta bảo cụ cắt tóc ngắn từ dịp phong trào "cắt tóc, xin xâu". Lúc ấy, những thanh niên trí thức nho học tự cho mình là tiến bộ đều cắt tóc ngắn. Chả thế mà trong một văn bản gửi công sứ Pháp tại Hội An, kiến nghị một số cải cách trong chế độ cai trị của Pháp bấy giờ, họ bắt đầu bằng câu: "Chúng tôi, những trí thức cắt tóc ngắn" (Nous, lettres cheveur coupees). Ấy thế nhưng khi nào nói về cái đầu tóc ngắn của mình thì cụ Dĩnh lại bảo:
- Mình chỉ muốn làm đứa trọc đầu để bọn quan trên không nắm tóc.
Hôm nay là buổi đọc vở. Các anh Phẩm, Thủ (Tức Nguyễn Nho Túy), Lai, Phổ cùng đến. Anh Phẩm mới 24 tuổi nhưng đã là nhưng trưởng. Anh Thủ suýt soát tuổi ấy cũng đã là kép nổi tiếng. Anh Lai kém hơn vài tuổi đương làm chân biên tuồng, anh Phổ cùng tuổi anh Lai là thư ký sáng tác của cụ Dĩnh.
- Bẩm cụ! Bẩm cụ!
- Chào các chú! Đúng giờ he! Cụ Dĩnh đáp lời chào của bốn anh và nói tiếp, vui vẻ: Thôi, pha chè uống rồi làm việc luôn. Sáng nay tốt trời!
Anh Lai gọi cụ Dĩnh bằng bác ruột, coi như người nhà, đi pha trà. Anh Phổ gọi cụ Dĩnh bằng ông cậu, cũng người nhà, vội vàng đi lấy chiếc chiếu hoa trải lên nền nhà, kề trước bộ phản gỗ. Bốn anh đều ngồi gấp bằng trên chiếu. Cụ Dĩnh với tay lấy cuốn tuồng từ anh Phẩm, liếc nhìn dòng chữ lớn ở bia, nhẩm đọc: Lâm Sanh Xuân Nương diễn ca. Cụ hỏi tiếp: Biết ai soạn không ?
Anh Thủ nhanh nhẩu đáp :Bẩm cụ! Anh chi đó ở Tam Kỳ.
Cụ Dĩnh cười: Anh Chi Đó à! Họ Chi tên Đó, nghe lạ hè !
Bốn chàng thanh niên nhìn nhau, muốn cười mà không dám cười. Cụ Dĩnh hỏi tiếp: Các chú đã đọc chưa, thấy thế nào ?
Anh Phẩm đáp dè đặt: Bẩm cụ! Chúng con đã đọc qua, nghe cũng xuôi xuôi.
Chẳng lẻ xuôi thì hát, còn ngược thì thôi à ? Ở đời cũng lắm cái ngược lại hay hơn cả cái xuôi đó. Cụ Dĩnh nói, tay đưa cuốn tuồng cho anh Lai. Thôi ! Đọc nghe thử!
Anh Lai bắt đầu đọc. Bản tuồng viết bằng chữ nôm, lối thảo, nét bút già dặn nhưng hơi xương xương. Anh cố tình đọc chậm, nhấn mạnh những câu mà bọn các anh thích, cho là hay. Rõ ràng là cách đọc của anh biểu lộ sự ủng hộ triệt để tác phẩm này.
Các anh Phẩm, Thủ không dám mở miệng khen chê gì nhưng làm ra vẻ gật gù tán thưởng. Riêng anh Phổ ngồi cúi đầu, im lặng có vẻ rất xúc động.
Cụ Dĩnh ngồi nghe, mắt đăm chiêu nhìn ra sân. Cụ rung đùi nhè nhẹ. Bỗng cụ quay lại đột ngột: Khoan ! Đọc lại câu đó !
Anh Lai đọc lại: Đồ ở đâu ám chướng u mê - Đánh cho bỏ vụng về khê khét... - Bảo giữ mồm có bữa tao đào mồ - Khéo vô phước rước voi dậm mã
Cụ Dĩnh gật gật đầu, bảo: Thằng cha nào viết được. Câu ấy khá !
Anh Phẩm, anh Thủ liếc nhìn anh Phổ. Anh Phổ vẫn cúi đầu nhưng mấy ngón tay động động, run run cao nhè nhẹ lên chiếc chiếu.
Khi anh Lai đọc xong, cụ nói :
Viết như thế tạm gọi là được, có câu hay. Các chú sắp xếp thì giờ, ra vai rồi ráp. Bảo với người soạn vở đến gặp mình, mình chỉ vẽ thêm.
Bốn thanh niên nhìn nhau, rồi anh nhưng Phẩm đứng dậy, chắp tay lễ phép: Bẩm! Xin cụ tha lỗi, vì sợ cụ quở, chúng con vừa phải nói dối. Thực ra, vở này do anh Ba Phổ học soạn lần đầu.
Cụ Dĩnh như sững người một lúc, nhìn anh Phổ vẫn đương cúi đầu.
- Thằng Phổ à ?
- Dạ, bẩm... Anh Phổ đứng dậy đáp ấp úng.
- Được! Ừ, mà cũng phải. Học phải hành, mà có hành mới sáng tỏ cái sở học. Cũng còn những chỗ phải sửa thêm,
Lâm Sanh Xuân Nương diễn ca, đó là vở tuồng đầu tay của Tống Phước Phổ. Năm ấy, anh tròn 18 tuổi.
Bước vào thập kỉ hai mươi của thế kỉ này, Quảng Nam vừa trải qua những biến động xã hội mãnh liệt: phong trào Nghĩa hội Cần vương, phong trào xin xâu, cắt tóc, rồi phong trào khởi nghĩa Duy Tân. Bao cái án tử hình đã đổ xuống đầu những chí sĩ yêu nước: Trần Văn Dự, Nguyễn Duy Hiệu, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Châu Thượng Văn... Rồi bao người khác phái tù đày ở Lao Bảo, Côn Lôn. Âm vang những trang sử hào hùng ấy vẫn đọng lại và sẽ đọng mãi trong lòng người, nhưng phong trào chống Pháp lúc bấy giờ dường như tạm lắng xuống để chuẩn bị những cao trào mới về sau.
Ngược lại, lúc này nghệ thuật hát bội lại vươn lên, phát triển hết sức phồn thịnh. Từ hai cái nôi Đức Giáo và Khánh Thọ, nghệ thuật này đã phát triển rộng dần ra toàn tỉnh, đến nay phong trào trở nên rầm rộ với nhiều gánh hát, nhiều nghệ sĩ lỗi lạc, nổi tiếng. Rồi các trường hát hình thành ở các đô thị Hội An, Đà Nẵng và nhiều thị trấn khác. Dường như cái không khí hào hùng trên sân khấu tuồng có mối liên quan nào đó với tình cảm vốn sôi động của người dân đất Quảng.
Với phương châm sống độc đáo : "Tiến vi quan, thoái vi bầu gánh", cụ Nguyễn Hiển Dĩnh khi về hưu đã bắt tay vào việc xây dựng một gánh tuồng rồi dựng rạp hát tuồng ở ngay làng An Quán, quê cụ. Đến năm 1913 thì một trường hát có qui mô lại được dựng lên ở Vĩnh Điện (cách An Quán 2 km). Những diễn viên lỗi lạc nhất trong tỉnh đều tập họp về đây. Lão nghệ sĩ nhưng Đá không còn diễn được nữa, vẫn được cụ Dĩnh mời về làm cái việc mà ngày nay ta gọi là "cố vấn" nghệ thuật.
Trường hát này thực chất là một trung tâm nghệ thuật. Ở đây, ngoài biểu diễn còn sáng tác, huấn luyện, đào tạo, lí luận và phê bình sân khấu. Cụ Dĩnh là giám đốc tài năng, người tổ chức và lãnh đạo xuất sắc trung tâm nghệ thuật này
Nhà cậu bé Tống Phước Phổ chỉ cách nhà cụ Dĩnh một bờ dâu chè tàu. Phổ lại gọi cụ Dĩnh bằng ông cậu. Cha chết sớm, Phổ được ông tú tài bác ruột kèm học từ nhỏ. Ngoài giờ Phổ thường sang bên cụ Dĩnh nghe giảng tuồng, xem ráp tuồng, tối tối ra rạp xem diễn tuồng.
Khi đã chuyển lên học trường huyện, trường tỉnh, cậu Phổ vẫn thường xuyên về xem hát ban đêm ở làng. Trường huyện, trường tỉnh cũng chỉ cách làng vài cây số. Phổ học khá thông minh, nhưng chưa kịp mang lều chõng đi thi thì triều đình có lệnh bãi thi. Thế là con đường cử nghiệp của Tống Phước Phổ chấm dứt. Cụ Dĩnh gọi Phổ sang ở với cụ, làm thư kí cho cụ. Cụ bảo: Sang ở với ông để học thêm. Không còn trường thi hương, thi hội thì còn trường thi hát bội. Trường thi này đâu có dễ, tiến sĩ, phó bang vào đây cũng rớt lịch bịch như chơi !
Thế là anh thư sinh Phổ, mười sáu tuổi đầu, lách luôn qua bờ dậu chè tàu, chính thức bước vào sự nghiệp sân khấu. Vừa là ông, vừa tuổi cao, địa vị xã hội cao nhưng cụ Dĩnh đối với Phổ rất thân tình. Nhiều khi cụ ngồi nói chuyện, giảng giải văn chương, nghệ thuật với Phổ suốt cả buổi. Những buổi cụ ngồi xem ráp tuồng và giảng giải, chỉ vẽ cho diễn viên, Phổ đều có mặt.
Chỉnh lí hay sáng tác kịch bản mới, cụ Dĩnh thường ngồi gấp bằng tròn, trên phản gỗ, có khi chống khuỷu tay tựa người trên chiếc gối lá sách, suy nghĩ rồi đọc cho Phổ chép. Có những câu cụ hát lên rồi ngừng lại thay chữ này, chữ kia. Hát lại lần nữa rồi mới bảo chép.
Có khi Phổ chép xong một lớp tuồng, cụ hỏi: Cháu thấy thế nào, phải sửa chỗ nào nữa không ? Lúc đầu sợ, dè dặt, nhưng sau Phổ cũng mạnh dạn thưa ý kiến của mình. Có ý cụ chấp nhận, khen, cũng có ý cụ cho là không đúng và giảng giải lại. Cụ thường khuyên Phổ phải tìm tuồng, tìm sách mà đọc, mà học, mà suy nghĩ. Cụ bảo: Đường thi hay nhưng đời Hán vẫn có thơ hay, Tô Đông Pha đời Tống cũng độc đáo, sách đời Minh bàn nhiều việc rộng và sâu. Ở nước ta thì Chinh phụ ngâm, Kiều là kiệt tác, thơ các cụ Nguyễn Công Trứ, cụ Tam Nguyên cũng rất hay. Ngay ở tỉnh nhà thì người văn chương cũng lắm, phải tìm mà đọc. Thơ ông Trần Cao Vân đĩnh đạc, thơ ông Trần Quí Cáp sâu mà hay, thơ ông Phan Châu Trinh hùng hồi sôi nổi, thơ ông Huỳnh Thúc Kháng trôi chảy, mượt mà, rồi cái ngông trong thơ văn ông Tú Quí cũng chẳng dễ có. Cụ nói thêm: Cũng chớ có khinh cái bọn hát hò khoan, nhiều đứa kiến tại lắm câu mà tú tài, cử nhân cũng khó bì kịp.
Phổ làm thơ, viết tuồng. Phấn chấn với thành công ở vở tuồng đầu tay, anh viết tiếp mấy vở khác đều được chấp nhận. Các anh Phẩm, Thủ, Lai luôn luôn khích lệ, giúp đỡ ý kiến:
- Câu nớ hay nhưng chữ nớ hơi khó hát.
- Sắp lối ấy chỉnh nhưng hơi dài.
- Câu khách chỉ nên dùng lối bảy chữ, câu sau thì mười một chữ để cho "tiền bần hậu phú" phù hợp với cuộc đối đáp, cãi vã mỗi lúc một căng.
- "Ngó phương trời" cũng được, nhưng nên sửa là "ngóng phương trời ", chữ "ngóng" nghĩa đậm hơn, tình đậm hơn, vả lại dễ hát.
Vở nào anh Phổ viết ra cũng được mấy bạn thân ấy góp ý tận tình như thế. Nhiều trường hợp các anh Phẩm, Thủ hát thử, diễn thử những câu tuồng nào đó để anh Phổ nghe, xem và sửa lại.
Anh Phổ còn được các bạn chỉ vẽ, bày cho hát, múa. Và rồi, đôi ba lần Phổ cũng thử lên sân khấu, có lần anh đóng vai Liễu Nguyệt Tim cùng với anh Phẩm trong vai Đào Phi Phụng. Đôi đào, kép này đều cao xấp xỉ 1m70, nhưng đều có vóc người thanh tú.
Anh Phổ hát rất chín, khá chết chữ chết nghĩa, sát góc sát bờ, giọng cũng thuận, có hầu âm nhưng múa yếu, không chỉ thuận bên trái. Đối với anh, biểu diễn chỉ là tài tử, nghiệp dư. Nhưng rõ ràng tập hát, tập diễn như thế rất tốt cho cái nghề sáng tác của anh.
Tống Phước Phổ đọc và học hỏi thêm nhiều. Càng gần cụ Dĩnh lâu, anh càng phục cụ, con người trung thực, hào hiệp. Tuy chỉ là tú tài nhưng sức học của cụ rất uyên thâm, văn chương có phong cách rất độc đáo, giản dị, gân guốc mà sâu sắc. Cụ rất sành việc vận dụng tục ngữ, thành ngữ. Không ít khẩu ngữ tầm thường nhưng được cụ đưa vào văn lại trở nên rất hay, rất đẹp:
Chòm mây nổi ra chi mà quyến luyến
Nắm đất vun rồi đó cũng chơ hơ
Đại mão dành cho đứa chực hờ
Anh Phổ cố học văn phong ấy, nhưng sao mà khó thế. Hình như đối với anh, việc vận dụng điển tích, tìm một vài câu thơ xưa rồi cắt xén, đưa vào tác phẩm của mình, như nhiều người đã làm, dễ hơn việc vận dụng ca dao, tục ngữ. Nhưng rồi anh Phổ lại ngạc nhiên khi nghe cụ Dĩnh khen văn chương cụ Đào Tấn, cho cụ Đào là "thánh trung thánh" trong văn học tuồng. Rõ ràng văn hai cụ rất khác nhau, thậm chí có thể nói là trái ngược nhau. Văn cụ Đào tao nhã, mượt mà có tính chất tầm chương trích cú, vận dụng nhiều điển tích trong kinh, sử. Vậy mà sao cụ Dĩnh lại đánh giá cao cụ Đào như thế. Cụ Dĩnh lại rất khen lời tuồng trong Sơn Hậu, cho là bình dị, đúng với nhân vật và rất dễ hát, dễ diễn hay.
Có lần anh Phổ ngồi lẩm nhẩm ngân nga câu đề của Cao Bá Quát về Thánh Gióng mà anh vừa nghe được: Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn - Thiết mã đằng không cổ tích kỳ
(Roi vàng phá giặc thay tiếng trời thét vang. Ngựa sắt bay lên không để lại dấu cũ kỳ lạ)
Cụ Dĩnh vừa bước đến, nghe được, hỏi: Cháu thấy câu ấy thế nào ?
- Anh Phổ đáp: Bẩm! Cháu thấy ngạo mà hay
Cụ Dĩnh nói tiếp: Chuyện ông Quát làm giặc và bị xử trảm thì chẳng biết thế nào mà phẩm bình, "Hỗn trần lưu xú diệc lưu phương! Nhưng thơ văn ông thì rất lạ và hay. Ông viết chữ Hán như mình nói tiếng ta, viết dễ dàng, thoát mọi gò bó, mà tứ thơ rất lạ, rất mới. Có điều thơ văn ông thuộc loại quốc cấm đó. Rất tiếc là hồi ông Cao ghé An Quán thăm ông cụ nhà mình và tặng đôi câu đối mình còn bé.
Rồi anh Phổ ngày càng hiểu được rằng văn là người, mà người thì có ai giống ai đâu. Càng ngày anh càng nhận thấy rõ cái học lối cử tử ở nhà trường trước đây quá khuôn khổ và hạn hẹp.
Cụ Dĩnh rất quảng giáo, nhiều nhà nho, quan lại trí thức trong tỉnh thường đến thăm chơi và cùng cụ bàn chuyện văn chương. Có lúc những vị ở tỉnh xa cũng đến, hoặc đi ngang ghé lại vài ngày. Anh Phổ luôn luôn có mặt trong những cuộc đàm luận ấy với tư cách là người phục vụ.
Có cụ gật gù bảo rằng, lâu nay ai cũng khen đôi câu đối của cụ Phạm Liệu treo ở nhà Quốc tử giám là ý tứ sâu rộng, chữ nghĩa chặt chẽ, nhưng Phạm tiến sĩ vẫn viết thừa bốn chữ "thiên, địa, quốc, gia". Không có bốn chữ ấy, nghĩa lý vẫn đủ.
Văn chương tự cổ trường tồn, thiên nhật nguyệt, địa sơn hà, Mỹ vũ Âu phong nan hối tắc.
Quý phạm bách niên bất dịch, quốc quân thần, gia phụ tử, Hán hùng Tần dựng khởi long ô
Nhưng có cụ cãi lại:
Bốn chữ ấy có thể là thừa nhưng nếu không có lại dường như thiếu, vì lẽ mỗi chữ đó mang cái bao quát, trong cái bao quát ấy mới có nhật nguyệt, sơn hà, quân thần, phụ tử.
Các cụ khác vừa cười vừa góp ý: Nhưng ở Trung Hoa dân quốc ngày nay thì làm gì có quân thần nữa ? Vậy thì đâu phải "bách niên bất dịch"?
Bình mười bài liên hoàn của bà vợ vua Thành Thái, các cụ khen, cho là rất có tình có nghĩa, lời thơ trau chuốt nhưng chân thành. Các cụ tán thưởng câu: Để dạ chỉn e tằm đứt ruột - Hở môi còn sợ vách nghiêng tai
Với câu: Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự - Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương
Các cụ cho là tứ thơ giỏi, tình với cảnh tương ứng nhau, những "giọt lệ" thì không thể "đầy vơi được, nên chăng đổi thành "dòng lệ"?
Bình bài "Tôn phu nhân quả thục" của Tôn Thọ Tường, có cụ khen văn chương trau chuốt, chặt chẽ, đặc biệt mấy chữ "bịn rịn", "trau tria" rất giỏi: Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc - Về Hán trau tria mảnh má hồng
Có cụ bảo: Giỏi thì giỏi thực, hơi thơ nhẹ nhàng, gọt tỉa mà thanh thoát, đối chỉnh, sát mà nghe tự nhiên, nhẹ nhàng. Nhưng "chòm mây bạc" ở đây là gì ? Là mây trên đỉnh Thái Hàn thì chữ "bịn rịn" rất sai. Ở xa nhìn lại chòm mây ấy thì bịn rịn sao được. Còn "chòm mây bạc" là mái tóc bà mẹ chăng? Nếu thương mẹ mà chỉ bịn rịn khi phải lìa xa trong tình cảnh đó thì đâu phải là nặng tình mẫu tử. Đáng lẻ phải xót xa, đau đớn, chết cả tâm can kia, chứ bịn rịn thì nhẹ tăng. Rồi "trau tria mảnh má hồng" thì rất đĩ, đĩ thực. Vì cái đĩ thực này mà xét lại vế trên hóa ra "bịn rịn" là thứ đỉ miệng, giả đối. Ông Tôn Thọ Tường đã làm cho Tôn phu nhân thành đĩ thõa...
Tống Phước Phổ học được rất nhiều trong những buổi đàm luận này của các cụ. Sau này, nhắc lại thời trẻ của cuộc đời mình, bác Phổ thường nói rằng, chính cụ Dĩnh là người đã dìu dắt rất nhiều khi bác bước vào con đường văn chương nghệ thuật. Bác cũng hay nhắc lại những cuộc đàm luận giữa cụ Dĩnh và những nhà nho khác như trên. Các cụ gặp nhau là rượu vào lời ra, phẩm bình cả thơ, phú, câu đối của người này, kẻ nọ. Có khi các cụ còn dám đưa cả những bài "ngự chế" ra khen chê.
Năm Khải Định 40 tuổi, triều đình Huế chuẩn bị lễ mừng thọ cho nhà vua. Bộ Lễ mời cụ Dĩnh ra Huế tham gia sáng tác tuồng, chuẩn bị tiết mục cho đại lễ đó.
Tống Phước Phổ được đi theo cụ để làm thư kí. Thế là anh có dịp vào ra nơi lục bộ, nơi mà nhan nhản áo gấm, bài ngà, lính khố vàng, áo dáu, xe gọng đồng..
Cụ Dĩnh ở đây hơn một tháng, đọc sách, đi dạo chơi, ra đội Thanh Bình để chuyện trò với các nghệ sĩ. Anh Phổ thường đi theo cụ. Khi cụ sáng tác, anh Phổ có nhiệm vụ ghi chép như đã làm lâu nay.
Hai vị quan to và cũng lỗi lạc văn chương là Phạm Liệu và Nguyễn Bá Trác đều người Quảng Nam, thường xuyên đến "thăm cụ" tại bộ Lễ và xin được nghe lớp tuồng cụ vừa đặt xong. Thế là anh Phổ lại làm nhiệm vụ đọc lại cho hai đại quan nghe. Hai vị đó gật gù khen và thỉnh thoảng họ lại nhìn nhau và đề nghị cụ sửa cho câu này, câu nọ.
Những trường hợp đó, cụ Dĩnh cười và nói: "Xin hai cụ sửa giúp cho !".
Anh Phổ hiểu rằng, hai vị tai to mặt lớn kia đến đây không phải để thưởng thức tuồng mà để kiểm duyệt khéo, sợ những câu động thời văn.
Trong dịp này, qua gợi ý tình cờ của cụ Dĩnh, các quan có trách nhiệm ở Kinh xét anh Phổ thuộc dòng họ công thần Tổng Phước, lại có tài đức nên đã sắp xếp cho anh vào một chức vụ thuộc viên ở bộ Lễ, để rồi, theo họ, anh có thể leo tắt lên các bậc thang công danh. Đáng lẽ cùng cụ Dĩnh về quê rồi anh Phổ phải trở ra nhận chức ở đất "thần kinh", nhưng trong thời gian ngắn ngủi ở Huế đó, chàng thanh niên Tống Phước Phổ đã mục kích cuộc sống trì độn của bộ máy quan liêu của triều đình Huế nên anh quyết định không ra Huế nhận chức.
Cụ Dĩnh cười bảo: Cái đó tùy cháu. Đời này quan nào rồi cũng chịu thua sút quan tiền. Tiền ăn ba, tiền ăn sáu, thậm chí tiền kẽm đều có thể xâu thành quan tuốt tuột. Làm quan sân khấu sướng hơn, có quyền hò hét mà không ai ghét.
Mới ở lứa tuổi 25 nhưng trong lĩnh vực thơ ca và văn chương sân khấu này, Tống Phước Phổ đã có được sự tin cậy trong hàng ngũ văn nhân đương thời trong tỉnh và trong giới nghệ thuật hát bội. Anh Phổ đã có được một phong cách riêng trong những tác phẩm của mình. Văn của anh khá mượt mà, trau chuốt nhưng không cầu kì. Thơ của anh rất ít trường hợp ép vận, do đó âm điệu tao nhã. Lời tuồng của anh rất dễ hát, dễ hiểu.
Do hiểu khá sâu về biểu diễn nên lời tuồng anh viết ra thường giành chỗ rất rộng cho sự sáng tạo của diễn viên. Đây đó, người ta cũng thấy anh Phổ đưa vào văn thơ những thành ngữ, phương ngôn khá độc đáo.
Nhưng loay hoay trong thi phú và văn học tuồng, bỗng dưng anh thanh niên Phổ cảm thấy không ổn. Chí làm trai phải được vẫy vùng ngang dọc. Lúc này, phong trào ân xá Phan Bội Châu, đám tang Phan Châu Trinh đã trở thành những sự kiện chính trị khuấy động lòng dân cả nước. Người ta nói nhiều đến Tân thư, đến chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên, đến những vấn đề độc lập dân tộc, dân quyền...
Âm vang những phong trào yêu nước trước đây dường như bắt đầu dậy lại trong quốc dân. Mấy câu thơ của Phan Châu Trinh lúc này lại vang lên trong tâm tư anh: Vạn dân nô lệ cường quyền hạ - Bát cổ văn chương thúy mộng trung.
Cùng với một người anh em họ có khuynh hướng tiến bộ tên là Thuận, Tống Phước Phổ quyết định bỏ đất Quảng vào Sài Gòn để tìm kiếm cuộc sống phù hợp hơn với tuổi trẻ, với chí hướng muốn bay nhảy của mình. Hôm anh vào chào từ biệt cụ Dĩnh, cụ hơi buồn, cụ cảm thấy có một sự thay đổi nào đó mới mẻ trong anh thanh niên Tống Phước Phổ, trong xã hội mà cụ đã quá thời.
Cuộc sống ở Sài Gòn sôi động, nhộn nhịp. Cái quyền làm người ở đây được tôn trọng hơn so với dải đất miền Trung, đó là điều mà anh Phổ cảm thấy phấn chấn. Người Quảng Nam vào đây khá đông và khá năng động trong nhiều lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội.
Phan Bôi khá quen biết trong các hoạt động xã hội chính trị. Phan Khôi làm báo cũng nổi tiếng. Chị Phạm Kim Chi (cháu nội của cụ Phạm Phú Thứ) mở một "quán văn" thách thức xướng họa, có khuynh hướng tiến bộ, làm thơ hay, viết chữ đẹp, ngày Tết ra ngồi ở chợ Bến Thành viết câu đối để bán. Câu đối chị đều có xu hướng yêu nước. Bạn cùng lứa tuổi với anh Phổ còn có Mai Phước Tiệm - người Điện Bàn, Đỗ Quỹ, Đỗ Quang người Quế Sơn. Đỗ Quang đi hội nghị Long Châu mới về...
Tống Phước Phổ hồ hởi gia nhập vào guồng chuyển động xã hội này. Anh gia nhập “Thanh niên cách mạng đồng chí hội” giữa năm 1923 và tích cực tham gia các hoạt động cho tổ chức cách mạng đó.
Năm 1930, Phổ được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Lúc này Đảng có chủ trương "vô sản hóa" cán bộ, đảng viên nên đương làm thư kí cho một hãng gạch, Phổ chuyển sang làm "cu ly" xe kéo, hàng ngày anh thuê xe của một chủ xe tay đi kéo thuê, tối lại trả xe cho chủ. Trong hàng ngũ cu ly xe kéo đông đảo của Sài Gòn lúc ấy đã có một chi bộ Đảng. Tống Phước Phổ được cử làm bí thư chi bộ. Cấp trên của anh là các đồng chí Phan Bôi, Hà Huy Giáp... Anh cũng thường giao tiếp với Lí Tử Trọng, Nguyễn Hải Triều.
Nguyễn Hải Triều lúc này hình như chịu trách nhiệm về Tuyên huấn và kiêm phụ trách công hội đỏ của thành phố, thường viết và cho in bí mật các truyền đơn cách mạng. Do ở Chợ Lớn có nhiều Hoa Kiều thuộc các thành phần lao động cần được tuyên truyền, giác ngộ nên đồng chí Hải Triều gọi anh Phổ đến giao trách nhiệm dịch truyền đơn ra Trung văn (truyền đơn in một mặt chữ quốc ngữ và một mặt chữ bạch thoại Trung Quốc). Đồng chí Hải Triều còn giao cho anh một chiếc xe đạp để đi lại công tác, có lúc phái anh đi kiểm tra công hội ở đây đó. Anh Phổ hoạt động tích cực hăng say và được sự tín nhiệm của tổ chức.
Trong chuyến đi kiểm tra công hội ở hãng rượu Bình Tây, giữa đường, Phổ bị ngã xe đạp xuống sông. Anh viết bài thơ, có mấy câu:
Sóng gió một phen đã vượt khỏi
Sỏi sành mấy dặm vẫn xem khinh
Bình Tây nhắm đích ta đi tới
Chỉ ngại đường xe lối gập ghềnh
Anh Phổ vẫn làm thơ. Thơ anh lúc này không trau chuốt nhưng đậm đà ý chí chiến đấu. Bài sau đây gởi anh em cu li xe kéo cũng vậy:
Hỡi bạn mình ơi chớ ngại ngần,
Nhà nghèo, nước bí cảnh gian truân
Nắng mưa dầu dãi thân nào nại
Sành sỏi xông pha bước chớ ngừng
Góp sức kéo nhanh xe lịch sử
Bền gan xem nhẹ lối phong trần
Một mai vận đỏ làm nên nỗi,
Xây dựng cơ ngơi tiếng lẫy lừng
Trong vụ Phan Bôi diễn thuyết, Lý Tử Trọng bắn chết tên mật thám Pháp Le Grant, Tống Phước Phổ là một trong những cán bộ bảo vệ vòng ngoài. Sau vụ này, tổ chức của Đảng bị vỡ lở. Phổ trở về Quảng Nam hoạt động. Cuối tháng tư năm 1931, anh vừa về đến quê thì lập tức bị thực dân Pháp bắt và bị tống giam ở nhà lao tỉnh. Vừa bước chân vào nhà lao, anh Phổ gặp và chào một người quen đã bị bắt trước thì nghe ở gian bên có tiếng hát tuồng. Một người nào đó dùng câu chữ trong sách Minh tâm để hát điệu khách: Mạc tín thực trung thực - Tu phòng nhân bất nhân.
Hát câu này rất khó, người hát lại không có giọng nên nghe hết sức buồn cười, nhưng anh Phổ vẫn rất cảm động vì đoán ra được người hát muốn dặn anh cảnh giác với kẻ anh vừa chào hỏi (Người hát câu này là ông Nguyễn Ngọc Kinh (thường gọi là ông Hương Kì) quen biết lâu với anh Phổ, đã từng hoạt động ở Sài Gòn. Ông Kinh về trước và bị bắt trước. Ông nổi tiếng ở nhà lao này với một hành động khá ngộ nghĩnh. Mỗi lần ông bị kẻ địch bắt đi tra tấn, ông chỉ lặp đi lặp lại một câu "Hươ hươ đức chúa Giêsu! Ngô Đình Khôi cho tra tôi đau quá !". Càng bị tra đau, ông cũng kêu to. Chẳng là Ngô Đình Khôi, Tổng đốc Quảng Nam lúc ấy là người theo đạo Thiên chúa).
Anh Phổ ở tù một năm, sau được thả anh vào lại Sài Gòn. Các đồng chí lãnh đạo cũ ở đây đều đã bị sa lưới giặc. Không liên lạc được với tổ chức, lại chẳng có việc gì để làm, anh bắt tay sáng tác vở tuồng “Gương liệt nữ”, nói về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Suốt mấy năm hoạt động cách mạng, hầu như anh Phổ không quan tâm gì đến tuồng. Bây giờ, trong tình cảnh mới, cảm thấy mình bơ vơ trên con đường chiến đấu, anh muốn gởi gắm chút lòng yêu nước yêu dân của mình vào tác phẩm, hi vọng nó có thể tìm thấy tiếng nói đồng tình, đồng chí. Thế nhưng vở tuồng phải đợi đến sau Cách mạng Tháng Tám mới được công diễn.
Trước kia, Phổ đã viết khá nhiều tuồng, hầu hết anh viết về đề tài lấy trong truyện dân gian và cổ sử Trung Quốc. Lần này, anh thử viết về đề tài chiến đấu chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Anh thích thú những câu như :
Trưng Trắc em ơi !
Anh dù chết, em cần phải sống
Nhà tuy tan, nước giữ cho còn
Anh giờ đây: Ngóng trời Nam giọng quốc thon von
Trông ải bắc, đường chim lần lữa
(Hát nam) Lần lữa thị tào nhẹ bước
Đấng anh hùng vì nước quên thân
Hay: (Tán) Gia đình cơn li tán,
Tổ Quốc nỗi tồn vong
Giang sơn đương thấm lệ
Ngồi vậy ngó sao xong.
Hát Nam: Bao phen cá chậu chim lồng…
Đúng là trong những câu hát này không phải anh chỉ nói về các nhân vật lịch sử mà còn muốn nói lên tâm tư của anh, của những người cùng thế hệ với anh. Thế nhưng Tống Phước Phổ vẫn chưa quay lại được với tuồng. Anh vẫn bị kẻ địch quản thúc, một phần nữa vì anh phải lo kiếm sống. Nhờ người giới thiệu, Tống Phước Phổ thi vào ngành đạc điền và anh làm nhân viên cho ngành này đến năm 1937. Đây là giai đoạn tuồng phân hóa mạnh trước những tác động của cải lương Nam Kỳ. Đối với các nghệ sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ như các anh Phẩm, Thủ, Thủy... họ vẫn kiên quyết giữ vững cách biểu diễn của tuồng truyền thống. Nhưng một số nghệ sĩ trẻ như nhóm các anh Tư Bửu, Năm Thiều, Bốn Hảo, Trần Tùng lại muốn hát theo lối mới, "giọng trung", "xuân nữ” và dùng đạo cụ bằng sắt. Họ được khán giả rất hâm mộ, nhưng về nghệ thuật, trong khi họ tìm cách khắc phục những hạn chế của lối biểu diễn tuồng truyền thống thì chính họ đã phủ nhận ngay truyền thống.
Anh Lai bấy giờ đã là một nghệ sĩ danh tiếng, có trình độ nghề nghiệp vững vàng, không đồng ý cả với lối diễn cách tân lẫn lối diễn truyền thống. Anh bàn với anh Phổ phải tìm một con đường khác. Hai người chủ trương phải viết những vở phù hợp với yêu cầu mới của xã hội và về diễn biến phải giữ cho được cái chân chất của nghệ thuật tuồng truyền thống, nhưng đồng thời, cũng phải pha chút ít cái mùi mẫn của cải lương, phải thêm phần mĩ thuật sân khấu, thêm những pha đấu võ trong một chừng mực nào đó để hấp dẫn người xem. Trong gánh Tân Thành Ban được xây dựng theo phương hướng này, anh Phổ chịu trách nhiệm chính về phần văn học. Đây là giai đoạn anh Phổ sáng tác nhiều nhất cho tuồng và nổi danh với tư cách một tác giả sân khấu tuồng tài năng. Tác phẩm của anh dễ thường có đến trăm vở. Trong đó, có loại là tuồng cổ nhưng anh cải biên ít nhiều, có loại là tuồng mới, anh viết đề cương và lời cho những lớp chính, vai chính, còn các lớp phụ, vai phụ thì để diễn viên tự cương lấy trong khi biểu diễn. Loại thứ ba, nói chung anh viết đương thời gọi là tuồng tiểu thuyết như: Tội của ai, Gươm tình đẫm máu, Ai lên Phố Cát, Cờ trắng rừng xanh”.
Tống Phước Phổ được xem là cây bút cự phách trong loại tuồng tiểu thuyết. Nhiều gánh tuồng xin diễn vở của anh, nhiều diễn viên thuộc lòng một số lời để rồi lắp lại trong những vở tuồng cương của họ. Điều đáng cảm động là mặc dù giai đoạn này anh không còn trực tiếp hoạt động cách mạng, nhưng những tình cảm yêu nước vẫn nung nấu trong con người anh, nên có dịp là anh gửi gắm đây đó trong một số vở. Anh đã biết đến cách mạng Nga và mơ ước cuộc cách mạng ấy có ngày sẽ đến với đất nước của mình. Trong vở “Cờ trắng rừng xanh” nói về một cô gái dũng cảm, cha cô bị triều đình giết hại, cô bèn chiêu tập binh mã, lấy núi rừng làm căn cứ, phất cao cờ báo phục, anh thêm những câu:
Kìa quân man rợ cho người biết ta
Tóm thâu muôn dặm sơn hà
Thanh bình một cõi, thái hòa bốn phương
Trước cờ ai dám tranh cường
Tiên Nga đầu đắt bước đường tương lai
Tiên Nga là tên nhân vật, đồng thời tác giả có dụng ý nói đến nước Nga cách mạng, nước Nga xô viết. Nói chung, khán giả lúc bấy giờ hết sức thích thú những câu có ẩn ý như thế. Nhưng số khán giả trẻ lại thường thích những vở tuồng anh viết về đề tài tình yêu, đấu tranh cho tư tưởng tự do, bình đẳng trọng hôn nhân. Thực chất là tư tưởng phản phong theo quan điểm tư sản.
Tuồng của Tống Phước Phổ thường nổi bật ở mặt văn chương, từ cú. Vốn là một người có học vấn tương đối rộng, từng sáng tác thơ, phú vững tay với phong cách tao nhã, từng viết báo ở Sài Gòn những năm trước, cho nên lời văn tuồng của anh dù ở thể loại nào vẫn giữ được tính chất nghiêm chỉnh trong nghệ thuật tu từ, tạo cú, giữ vững những qui tắc của văn chương bác học vốn có trong kịch bản tuồng cổ. Trong tuồng tiểu thuyết có những lớp phải dùng lời văn xuôi (như trong vở “Tội của ai” - lớp một sinh viên diễn thuyết về tự do hôn nhân, hay “Lớp quan tòa xử án” anh cũng cố gắng viết cho chặt chẽ, mạch lạc và giàu hình ảnh. “Tội của ai” là một vở được đông đảo khán giả đương thời tán thưởng. Vở tuồng có nhiều tình tiết phát triển ly kỳ, nhiều đột biến hấp dẫn và cái chết mang tính bi kịch trong vở gây được mỗi hoài cảm trong lòng người xem.
Cách mạng tháng Tám thành công, Tống Phước Phổ được bầu làm chủ tịch xã ở quê anh.
Anh làm việc hăng hái, nhiệt tình, được tín nhiệm. Nhưng khi tuồng hoạt động lại sau cách mạng, vở “Gương liệt nữ” của anh được công diễn, anh xin thôi công tác chính quyền để tham gia hoạt động nghệ thuật. Anh viết một loạt vở như Kiều Quốc sĩ, Anh Lan chị Lan, Vì bạn quên mình. Đây là những vở mở đầu cho giai đoạn sáng tác mới của anh. Nội dung những vở này nhằm nêu cao tư tưởng đấu tranh cho độc lập dân tộc, chống ngoại xâm, biểu dương những con người có khí tiết dũng cảm, hi sinh cho sự nghiệp lớn. Vở “Vì bạn quên mình” của anh còn bóng dáng của loại tuồng tiểu thuyết, nhưng đến vở “Anh Lan chị Lan” thì nhân vật chính là một cán bộ cách mạng của Đảng.
Kháng chiến chống Pháp, Tống Phước Phổ tản cư lên Bàu Toa. Đoàn tuồng Liên khu V từ Bồng Sơn đi ra phía Bắc, diễn ở Quảng Ngãi, Quảng Nam rồi đến vùng này vừa biểu diễn phục vụ và cũng vừa có ý định tìm anh Phổ.
Sau mấy năm ly tán vì chiến tranh, những người bạn thân thiết trong nghệ thuật gặp nhau tay bắt mặt mừng: anh Phổ, anh Lai đầu đã bạc tuy ở tuổi 50. Anh Sơn, anh Tảo (tức Thủ), chị Liễu cùng nhắc lại những kỉ niệm cũ, cười râm ran suốt một buổi sáng. Súng địch vẫn nổ cầm chừng ở những đồn bốt cách đó không xa. Anh Phổ phấn khởi khi nghe truyền đạt chỉ thị của trung ương về công tác phục hồi vốn cổ dân tộc, và nghị quyết của khu ủy thành lập đoàn tuồng này. Anh vui vẻ hào hứng nhận lời gia nhập đoàn.
Cuối năm 1954, đoàn tuồng tập kết ra Bắc. Anh Phổ được điều đi làm cán bộ cải cách ruộng đất cho đến giữa năm 1956 mới trở về đơn vị. Từ đây, anh chuyên việc sáng tác cho đến mai sau này.
Vở “Lam Sơn khởi nghĩa” năm 1953 là vở đầu tiên của giai đoạn này. Năm 1959 anh cùng với Hoàng Châu Ký cải biên “Tam nữ đồ vương” thành “Ngọn lửa Hồng sơn”. Tiếp theo anh chỉnh lí một loạt vở truyền thống cho đoàn tuồng Liên khu V, dàn dựng Ngũ hổ, Tam khí Chu Du, Trảm Trịnh Ân, Sơn Hậu... Về sáng tác từ đấy cho đến 1975 anh viết liên tiếp các vở An Tư công chúa, Ngô Quyền, Đường lên khuông Mánh (đề tài hiện đại), Tuổi trẻ truyền thống (đề cương của Cù Huy Cận), Khởi nghĩa Trưng Vương (viết lại), Nguyễn Huệ… Vở có bề thế nhất trong thời gian này của anh là An Tư công chúa.
Ngòi bút của Tống Phước Phổ trong giai đoạn này chuyển hướng rõ rệt. Anh chuyên viết về đề tài chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc và cũng thể nghiệm về cuộc sống trước mắt hôm nay. Văn chương tao nhã nhưng chân thật, không còn những câu kêu, sáo thường xuất hiện ở loại tuồng tiểu thuyết của anh trước kia. Bố cục vở nói chung là chắc và tập trung tốt vào chủ đề, không có những đột biến có tính chất éo le, li kì.
Một đóng góp khác khá quan trọng của Tống Phước Phổ trong giai đoạn này là anh đã cùng với các nghệ sĩ Nguyễn Nho Túy, Nguyễn Lai, Văn Phước Khôi, Ngô Thị Liễu, Phạm Chương... khai thác phục hồi lại những vở cổ mà từ lâu đã mai một như Giác oan, Mã Phụng Cần, Lí Ân Lang Châu, Nghĩa Hổ, Võ Hùng Vương…
Anh viết lại nhiều đoạn trong những vở này. Nhưng đoạn anh viết giữ được văn phong bác học của tuồng cổ.
Sau khi miền Nam được giải phóng, Tống Phước Phổ về Qui Nhơn cùng với đoàn tuồng Liên khu V (nay là nhà hát tuồng Nghĩa Bình). Về hưu, nhưng anh không hưu trong sáng tác nghệ thuật.
Mười năm qua, nhà văn lão thành đáng kính này đã tiếp tục sáng tác các vở mới: Vân Tiên - Nguyệt Nga, Sao Khuê trời Việt, Trần Cao Vân, cùng với Hoàng Châu Ký viết vở Ngọn cờ Nguyễn Huệ, Ông Ích Khiêm, chuyển thể một vở kịch đề tài mới sang tuồng: Tình yêu qua tết LiBoong. Những vở này được dựng ở nhiều nơi: Nghĩa Bình, Quảng Nam Đà Nẵng, Phú Khánh, Thanh Hóa. Ngoài ra anh còn chỉnh lí nhiều vở truyền thống làm tiết mục cho Nhà hát tuồng Nghĩa Bình trong những năm gần đây.
Thỉnh thoảng, Tống Phước Phổ cũng làm thơ khi có cảm hứng hoặc thù tác với bạn tri giao. Tết năm 1985, anh làm bài thơ đường luật sau đây tao nhã và dồi dào cảm xúc:
Pháo hướng giao thừa đáo tiểu hiên
Ta đà độc tiếu ngã cô miên.
Hân hoan minh nhật phùng giai tiết
Linh lạc thần tinh ức vãn niên.
Đường cuộc y quan nhiêu khối lỗi
Tùng thời thi tửu diệc thần tiên.
Li khai lợi tỏa danh cương ngoại
Phóng khoáng xuân hoài tự tại thiên
Tạm dịch:
Pháo nổ giao thừa đến trước hiên
Cười ta giấc ngủ vẫn triền miên
Ngày mai tết đến vui bao ngả
Năm cũ sao mờ vắng vẻ thêm.
Áo mão trò đời như múa rối
Rượu thơ tùy thích ấy thần tiên.
Lùi xa tránh hết vòng danh lợi
Thanh thảng lòng xuân thú vị riêng
Dưới bài thơ ký tên: Tố Phong hựu lão. Tố Phong là bút danh của Tống Phước Phổ, có nghĩa là ngọn gió lành, cũng là nói lái cái tên Tống Phổ của anh.
Hơn ba mươi năm qua, anh Phổ với tôi là đôi bạn vong niên thân tín, thường cùng nhau bàn bạc về văn học và nghệ thuật tuồng. Anh Phổ hầu như chỉ thích như thế, rất ít khi anh nói chuyện khác, nhất là những chuyện tranh giành quyền lợi, chức vụ của người này kẻ nọ. Ta có thể ngồi uống trà (anh không uống rượu) nói chuyện với anh suốt buổi về thơ văn Cao Bá Quát, Nguyễn Du, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh. Anh thuộc rất nhiều thơ, phú, câu đối. Anh cũng say sưa kể suốt buổi những cách hát, cách diễn tài tình của những nghệ sĩ lớp trước mà chính anh được gặp, được xem: ông Đội Em, ông Cửu Đốc, ông Tảo, ông Lai...
Nhưng về cuộc đời riêng của mình, hầu như anh không nhắc tới, có chăng là nhắc về chuyện họa thơ của người này, làm câu đối tặng người khác...
Khi đồng chí Hà Huy Giáp về công tác ở Bộ Văn hóa, gặp anh và nhắc lại giai đoạn cùng hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, anh trả lời qua loa rồi nói sang chuyện khác.
Mãi gần đây, khi Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh xuất bản cuốn tư liệu về lịch sử Đảng bộ thành phố, nhắc đến tên Tống Phước Phổ ở chi bộ công nhân xe kéo, thì một số anh em mới biết chuyện ấy.
Gia đình anh như thế nào, anh cũng chẳng kể với ai. Ai biết rõ, hỏi thì anh thừa nhận: Người vợ trước mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Đơn độc, anh phải tục huyền. Mấy mươi năm anh sống ở miền Bắc thì người vợ hiền của anh vào tu tại một ngôi chùa ở thành phố Hồ Chí Minh, ăn chay trường, nhưng là cơ sở cách mạng tích cực. Đứa con trai duy nhất của anh "nhảy núi", vào quân giải phóng và đã hi sinh.
Ngày anh về miền Nam, vào tìm chị Hai, mái đầu bạc và hai tấm lòng son. Chị vẫn tiếp tục sống ở chùa. Thỉnh thoảng anh lại vào thăm. Và chị mất năm 1984.
Đối với nhà văn Tổng Phước Phổ - anh được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1968 tại Hà Nội, hiện nay xã hội là gia đình lớn và ngành tuồng là gia đình nhỏ của anh.
Hoàng Châu Ký - Bài viết sưu tầm tư liệu Tuồng Quảng Nam xưa và nay