
GIÁO SƯ HOÀNG CHÂU KÝ
GIÁO SƯ HOÀNG CHÂU KÝ
(1921 - 2008)
- Nhà nghiên cứu, soạn giả, đạo diễn
- Quê quán: Kim Bồng, Hội An
- Thường trú: Quế Lộc, Quế Sơn, Quảng Nam
- Giải thưởng nhà nước năm 1984
- Nguyên tổng thư ký đầu tiên Hội NSSK Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Sân khấu Việt Nam.
Cũng như nhiều trí thức cách mạng chân chính ở lứa tuổi 60-70, giáo sư Hoàng Châu Ký có một cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và lao động trí tuệ đầy gian khổ, nhưng cũng thật đáng tự hào. Những nếm trải của thế hệ này, những tri thức và vốn sống của họ đến hôm nay vẫn còn đủ để làm cho chúng ta quí mến và ngưỡng mộ họ.
Ông Hoàng Châu Ký sinh ra ở một vùng miền núi của tỉnh Quảng Nam. Ta đi đò dọc ngược sông Thu Bồn, qua bến Dầu, Bầu Toa, đi vào một chặng sông núi quanh co, đẹp như tranh thêu, để rồi qua đó, tầm nhìn rộng hơn ra bởi một vùng thung lũng với xóm thôn đầm ấm. Xa xa kia là những dãy núi cao ngất, nắng lồng mây chải, đổ bóng xuống đồng xanh. Bạn sẽ thấy hồn mình rung lên tột bậc khi không biết từ trời hay nước, từ núi hay làng, hay là từ con đò trở trăng ngược nước, đồng vọng câu ca bình dị:
Trông lên Hòn Kẽm, Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi!
Vào đầu thế kỷ này, vùng Trung Phước đã trở nên sầm uất. Bên kia là hoa trái Đại Bường, bên này là làng mang dáng phố. Những thôn nữ đội trái tươi giòn sang sông buổi chợ. Những nhà nho khăn đóng áo the, cầm ô thăm bạn xuống đò. Song, đằng sau cái yên lành ấy là niềm băn khoăn của người dân trước thân phận vong quốc nô của mình.
Tuổi thơ Hoàng Châu Ký trôi qua trong một gia đình nhà nho thôn dã. Từ khi còn để chỏm, chú bé Ký đã tiếp xúc với không chỉ Nho học. Mỗi lần có khách đến chơi nhà, ông bố lại gọi chú ra, bắt khoanh tay đứng đọc đủ các kiểu câu đối la liệt trên các dãy cột. Mặc dù chưa biết chữ mà cũng chả hiểu nghĩa, chú vẫn rành rọt ngân nga như một cái máy. Đối với chú, với trí tưởng tượng tuổi thơ, chỉ có cái văn móc vẽ ở trán câu đối là có ý nghĩa, nó trông giống một ông người cưỡi xe đạp (!). Song, cái để lại trong đầu óc cậu ngay từ hồi bấy giờ đã có giá của nó: âm hưởng nhịp nhàng, đăng đối của văn biền ngẫu, mùi trà bốc lên thơm thoảng, giấy đỏ mực tàu hừng lên ấm cúng, tất cả đã cho chú một kí ức êm đềm của tuổi thơ không dễ phải nguôi.
Rồi chú bé Ký học chữ nho tại gia. Dù không bị roi đòn nhưng sự nghiêm khắc, nề nếp của ông bố đã giúp chú sớm trở thành một cậu bé có "danh tiếng" nơi thôn trang.
Vào thời đó, ở Quảng Nam, Tuồng đã sớm trở thành một nghệ thuật mang tính đại chúng sâu sắc. Tuồng tham gia vào mọi sinh hoạt nghi lễ và hội lễ dân gian. Cầu phước, lên lão, làm nhà, vinh qui, hưu quan, tế họ... người ta đều mời đến hát Tuồng. Phong trào "nói tuồng" phát sinh. Các trí thức nông thôn, chủ yếu là các nhà nho mà “vận” đã "khứ", sau đến còn có cả vài ba ông giáo quốc ngữ ham mê, tụ họp lại với nhau và đem các tích tuồng cũ ra cùng hát xướng. Cũng phân vai, cũng lớp lang, cũng nam, cũng khách, cũng ai, cũng oán... họ diễn lại các vở tuồng cổ điển. Có khi cương lên để ngạo các trọc phú, các ông Tây làm chuyện lố lăng. Cái từ ngữ Hán văn tưởng đã héo khô trong kinh sách, nay qua các buổi nói tuồng, sống lại bởi các trí thức yêu nghệ thuật. Mà đâu chỉ là nghệ thuật, đó còn là cuộc đời. Bao tấm gương trung liệt còn sáng ngời khí tiết xả thân vì nước. Người ta liên tưởng đến những cái chết của Nguyễn Duy Hiệu, Trần Cao Vân, Trần Văn Dự, Thái Phiên - cái chết đã khích lệ mọi tấm lòng yêu nước thiết tha. Các nhà nho nông thôn, vốn mang lòng "tự nhiệm" trước thời cuộc, lại vốn có tâm lý "hoài cổ", họ đã tìm đến tuồng, nơi phân biệt rạch ròi trung nịnh, nơi chứa đựng những tính cách lẫm liệt, nơi chan chứa những ảo tưởng "minh quân", để mà thưởng thức, mà gửi gắm, mà nói chí mình.
Lúc này, nghệ thuật cải lương đang từ "ca" nhảy lên sân khấu để "diễn", còn tuồng thì “diễn” phổ biến trong dân gian và có cả một phong trào nói tuồng. Cải lương bắt đầu chê tuồng là ngu trung, hoài cổ, còn chính cải lương lúc đó, một bộ phận cũng đã sớm bị lợi dụng trong âm mưu "Pháp - Việt đuề huề". Đúng là các nhà nho thủ cựu thật, nhưng nếu họ tìm thấy trong tuồng tấm lòng trung trinh với nước với dân thì cái đó xưa nay có bao giờ "cựu”.
Chú bé Ký đã thực sự đắm mình trong phong trào nghệ thuật đó. Nhà chú là nơi mà các cụ đồ hay lui tới, đàm đạo việc nước, việc đời và nói tuồng. Chú thường được đứng hầu trà các cụ. Vốn chữ Hán chữ Nôm đã có chút ít, nay giàu thêm bởi lời giảng tuồng, tranh luận về tuồng của các cụ. Các vở tuồng, các điệu hát cứ ngấm dần vào trong tâm hồn tươi rói của chú. Không học mà nên, chú thuộc dần các vở tuồng, biết hết đủ điệu và khá chuẩn mực. Chưa hết, chú còn bò xoài lên bộ phản giữa nhà để chép lại các bản tuồng cho ông chú mình là một ông giáo đặc biệt ham mê tuồng. Chú chép bằng chữ Nôm, chữ Hán qua các quyển tuồng đã ố hoen bởi thời gian. Chưa kịp học, đã phải hành, chính công việc đó đã giúp chú am hiểu Hán văn, chữ nghĩa. Và mặc dù không bao giờ ra sân khấu nhưng chú Ký đã thuộc rất nhiều tuồng. Chú học được ở tuồng tinh thần trung kiên, tư tưởng nhập thế và tấm lòng tiên ưu. Chú như già đi trước tuổi.
Ai mà ngờ được rằng, cái tuổi ấu thơ thấm đẫm chất trong ấy, trong cuộc đời hoạt động sau này, có lúc tưởng đã quên đi, nhưng khi cách mạng cần đến, đó chính lại là cái duyên cớ, cái tâm năng để Hoàng Châu Ký dấn thân vào nghệ thuật, trở thành nhà tổ chức sân khấu và trở thành một giáo sư nghệ thuật, nặng nợ với tuồng.
Năm 16 tuổi, anh thanh niên Hoàng Châu Ký tạm biệt quê hương, lên đò xuôi Đà Nẵng, bước vào cuộc đời nước lọ cơm niêu của một học sinh trọ học. Anh học thành chung trong một trường tư thục.
Hồi đó, học cấp hai cũng có thể nói là đã nằm trong tầng lớp tri thức. Thầy mới, bạn mới, môi trường mới, tri thức mới đã mở rộng tầm nhìn cho anh. Không khí chính trị và văn học hồi đó thật sôi nổi và lắm sắc màu. Mặt trận dân chủ Đông Dương, lợi dụng thời cơ thế giới thuận tiện đã phát động một phong trào đấu tranh rầm rộ trên mặt trận tuyên truyền chính trị và tư tưởng. Các dòng văn học cũng phát triển rầm rộ. Thanh niên học sinh chuyền tay nhau những tác phẩm văn học của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Lan Khai phản ánh hiện thực tối tăm đương thời, họ ngâm nga những thi phẩm của phong trào thơ mới đang ở độ dậy thì. Hoàng Châu Ký cũng thích sáng tác. Anh đã làm thơ, và thơ anh cũng buồn, cũng cô đơn như thơ ca của nhiều người lúc bấy giờ :
Ngày xưa bên mẹ, mẹ ru
Nước non cách trở, thân chừ long đong.
Tơ vương cũng nặng đèo bồng
Giang hồ cũng nặng với dòng nước xanh
Chiều đông thuyền đậu bên ghềnh
Lòng con đậu giữa những vành tang thương
Nhưng rồi trong các thầy giáo của anh lúc đó, có những người là Đảng viên Đảng Cộng sản như Trần Tống… Họ sớm phát hiện ra sự chín chắn, nhiệt tâm của anh và hướng dẫn anh dần dần bước vào con đường cách mạng. Qua các thầy giáo, Hoàng Châu Ký bắt đầu tiếp xúc và làm quen với các ấn phẩm triết học, lịch sử, chính trị kinh tế học, cả các tác phẩm chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng do Quan Hải tùng thư xuất bản. Đó chính là các tài liệu dịch và khảo cứu của các trí thức tiến bộ hồi bấy giờ như Đào Duy Anh, Trần Đình Nam, Võ Liêm Sơn, Phan Đăng Lưu… Các thầy giáo cùng hướng dẫn anh biết phê phán tư tưởng bi quan, ảo tưởng của văn học lãng mạn, đấu tranh chống lại nọc độc của các nhóm tờ - rốt - kít hòng lấy chiêu bài chủ nghĩa Mác để xuyên tạc chủ nghĩa Mác, lí giải một cách méo mó lịch sử và hiện trạng xã hội Việt Nam.
Hoàng Châu Ký hăng hái tham gia công tác vận động thanh niên. Lợi dụng phong trào "vui vẻ trẻ trung" anh tham gia các hoạt động thể thao văn hóa để giác ngộ quần chúng hướng tới Đảng. Sau mỗi đợt tổ chức hoạt động thể thao như đá banh, đấu quyền, anh lại lôi cuốn được thêm một số thanh niên tích cực, có nhiệt tâm đến với cách mạng.
Hồi đó, sân khấu tuồng Quảng Nam phát triển đến mức rực rỡ. Ở Đà Nẵng, nhiều gánh tuồng nổi tiếng đua tài biểu diễn. Các nghệ nhân như Chánh Đệ, Phó Phẩm, Nguyễn Lai, Phó Sơn, Đội Tảo, Ngô Thị Liễu đạt đến độ chín mùi của tài năng. Trước sự khởi sắc của Cải lương từ lục tỉnh ra, tuồng cổ đã chấn hưng lại để ganh đua, một sự ganh đua thật là có lợi cho sự phát triển của nghệ thuật.
Song, thời kì này, Hoàng Châu Ký hầu như xa hẳn sân khấu. Anh hăng hái lao vào các hoạt động đoàn thể Cách mạng. Năm 1942, Hoàng Châu Ký được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương lúc anh 21 tuổi đời. Năm 1943 anh bị bắt và giam tại Quảng Nam sáu tháng. Ra tù, anh lại tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1944 anh bị bắt lần thứ hai, bị đưa ra tận Hỏa Lò (Hà Nội), sau đó đưa trở lại vào Nam. Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, anh cùng các đồng chí của mình vượt ngục. Anh trở về Quế Sơn hoạt động. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Hoàng Châu Ký làm Trưởng ban bạo động cướp chính quyền ở vùng mỏ Nông Sơn, quê anh.
Sau cách mạng, anh liên tiếp gánh vác nhiều công tác chính quyền và công tác Đảng ở địa phương như Bí thư Huyện ủy Quế Sơn, Bí thư Huyện ủy Tiên Phước, Bí thư Đặc khu ủy Hoàng Văn Thụ, rồi lại về làm chủ tịch huyện Quế Sơn. Sau đó anh là Phó trưởng ban Tuyên huấn tỉnh ủy phụ trách giáo dục, khoa học và Văn nghệ Quảng Nam. Tiếp theo anh là Ủy viên thường vụ Chi hội Văn nghệ Liên khu V, hoạt động cùng với các nhà thơ như Khương Hữu Dụng, Tế Hanh, nhà văn Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Thành Long vv...
Hoàng Châu Ký hồi tưởng lại những ngày ở Bồng Sơn, nơi cơ quan Khu ủy Liên khu V đóng với sự bận rộn trăm công nghìn việc của công cuộc kháng chiến kiến quốc. Có một kỉ niệm không quên được đã gắn liền cuộc đời của ông với nghệ thuật sân khấu. Ở đại hội Đảng bộ khu V lần thứ ba, trong một đêm sinh hoạt văn nghệ, anh em đang hát những bài ca kháng chiến, kể những câu chuyện vui, ngâm thơ…, đồng chí Trịnh Quang Xuân, trước kia là Xứ ủy Trung bộ, một đảng viên già dặn, luôn luôn lạc quan, thông minh sắc sảo, có thể hài hước được trong bất kì hoàn cảnh nào, dù là cam go, nói: Nè, bài hát mới thì đã nhiều rồi, chú nào thuộc Tuồng ta mần một đoạn coi. Ông quay sang Hoàng Châu Ký - Nào, chú Ký, vô vai Địch Thanh coi thử, mình làm Trại Hoa, học giỏi làm Lưu Khánh. Và Hoàng Châu Ký dè dặt vào cuộc. Ngỡ đã quên đi, song cùng hát càng say, càng say càng hay. Anh em thích quá vỗ tay ran ran. Ông Trịnh Quang Xuân nói khi tan buổi: "Có chỉ thị Trung ương về việc phục hồi vốn cổ rồi đó. Phải đưa văn nghệ cổ truyền phục vụ kháng chiến kiến quốc, Chú Ký xem rồi ta lập đội tuồng Liên khu đi chứ lực lượng thì có thừa rồi đó !". Thế là đội tuồng Liên khu V được thành lập vào đầu năm 1952. Lúc đó, các nghệ sĩ tuồng tham gia kháng chiến được tập hợp lại. Đó là một lực lượng tài hoa không dễ có trong lịch sử sân khấu cách mạng: Đội Tảo, Phó Sơn, Sáu Lai, Ngô Thị Liễu v.v... tất cả đang ở độ tuổi sung sức nhất trong bộ môn nghệ thuật đầy khổ luyện này. Và có lẽ, hơn ở đâu hết, Quảng Nam là nơi có nhiều nghệ sĩ tuồng là Đảng viên cộng sản nhất. Hoàng Châu Ký vừa làm công tác Đảng vừa là người lãnh đạo trực tiếp đơn vị nghệ thuật quí giá này.
Công việc trước mắt là phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Hoàng Châu Ký cũng như tất cả anh em trong đoàn không từ một công việc cụ thể nào là không làm để cho những đêm biểu diễn có giá trị tuyên truyền tốt nhất. Cái Đảng cần trước hết lúc bấy giờ vẫn là lòng yêu nước thiết tha, nhiệt tình cách mạng nóng bỏng và tinh thần hi sinh cao cả. Song, thực tế cách mạng càng ngày càng đòi hỏi nhiều tri thức khoa học cũng như kinh nghiệm lịch sử. Những tài liệu về đường lối văn nghệ của Đảng thời kỳ này thực sự là động lực, là kim chỉ nam cho hoạt động của ông. Hoàng Châu Ký bắt đầu đọc lại một cách nghiêm túc một số văn kiện của Đảng như “Đề cương văn hóa Việt Nam”, đặc biệt là các tài liệu của đồng chí Trường Chinh lúc đó mới được chuyển vào như “kháng chiến nhất định thắng lợi, Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”. Giá trị khoa học sâu sắc, ý nghĩa thực tiễn rộng lớn và tính chiến đấu mạnh mẽ của những tác phẩm đó đã giúp cho Hoàng Châu Ký có một thái độ đúng đắn ngay từ đầu đối với di sản nghệ thuật quá khứ của dân tộc là: "tìm tòi, học hỏi những tác phẩm văn học nghệ thuật của ông cha ta để lại nhưng (chúng ta) phê bình, nhận xét những tác phẩm đó và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc, "Trường Chinh, Chủ nghĩa Mác và Văn hóa Việt Nam 1947”. Với phương châm văn hóa có tính chất kinh điển: dân tộc, khoa học, đại chúng, được phân tích một cách sáng rõ, các tác phẩm đó thực sự đã đem đến cho Hoàng Châu Ký một cương lĩnh hoạt động văn hóa, đã khích lệ ông tìm tòi và khám phá cái tinh túy của nghệ thuật sân khấu tuồng, phát hiện ở nó khả năng tuyên truyền, sự "thanh lọc" và giá trị giáo dục thẩm mĩ to lớn.
Hoàng Châu Ký, đồng thời cũng bắt đầu tìm hiểu các nhà tổ chức, các tác giả tuồng truyền thống, gần là Nguyễn Hiển Dĩnh, xa như Đào Tấn v.v... Làm và học, học và làm với niềm say mê và với nhiệt tình cách mạng. Những công việc ông làm, trước hết là hiệu quả của những buổi biểu diễn cụ thể cho nhân dân mình xem chứ không phải vì một mơ ước "trước thủ lập ngôn" kinh viện nào cả. Cho đến hôm nay, cái quí giá của giáo sư Hoàng Châu Ký vẫn là ở chỗ đó, cho dù ông có những tác phẩm nghiên cứu như “Sơ khảo lịch sử nghệ thuật Tuồng” rõ ràng có tính cách qui phạm của một giáo trình.
Năm 1954, đoàn tuồng Liên khu V tập kết ra Bắc. Trên đường đi của mình đoàn đã không ngừng phục vụ nhân dân khắp nơi. Những chỗ đoàn nghỉ chân với các tiết mục cổ điển như “Sơn Hậu, Võ Hùng Vương, Phụng Nghi Đình và cả vở tuồng mới như Gia đình chị Ngộ”. Nhân dân đã thương mến và lưu luyến tiễn đưa đoàn với những kỷ niệm đẹp đẽ mà nhiều người dân suốt 20 năm đánh Mĩ ác liệt, họ không lúc nào quên, đêm đêm lại mở đài tiếng nói Việt Nam để nghe lại giọng hát của ông Tảo, ông Lai, bà Liễu ngay trong vùng địch kiểm soát (tài liệu nghiên cứu điền dã xã hội học tuồng ở các huyện Quế Sơn và Đại Lộc).
Vì nhiệm vụ công tác, Hoàng Châu Ký tập kết đợt cuối cùng. Ra miền Bắc lúc đầu ông được cử đi tham gia công tác cải cách ruộng đất.
Năm 1957, các hội nghệ sĩ thành lập, Hoàng Châu Ký đảm nhiệm trọng trách là Bí thư Đảng đoàn và Tổng thư ký hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Nhưng trong hoạt động của mình ông đã dành rất nhiều thời gian cho tuồng.
Những năm ấy, ở Hà Nội tuồng hầu như không tồn tại. Các Đoàn Kim Lan, Kim Thanh tuy còn diễn ở rạp Bạch Mai nhưng ảnh hưởng của nó không đáng kể. Nhân dân cơ hồ lạnh nhạt với bộ môn nghệ thuật này. Đoàn tuồng Liên khu V ra Bắc lúc đầu diễn ở rạp Ái Liên cũng chẳng mấy ai chú ý.
Phải hành động để trả lại cho bộ môn nghệ thuật này giá trị của nó. Hoàng Châu Ký tổ chức đi nói chuyện nhiều nơi về Tuồng. Thực chất, đây cũng là một thứ "vận động cách mạng" nhưng với nội dung mới trong một giai đoạn mới. Dùng nghệ thuật để tuyên truyền đã khó, giờ đây, tuyên truyền cho nghệ thuật còn khó khăn hơn nhiều. Nó đòi hỏi phải có tri thức khoa học về nghệ thuật, khả năng hùng biện và tinh thần nhiệt tình vô hạn. Vẫn là phương pháp cổ truyền cách mạng quen thuộc: diễn thuyết; vẫn là con người ấy: đảng viên, nhưng mục tiêu bây giờ lại là việc hướng dẫn một thị hiếu thẩm mĩ tốt đẹp cho nhân dân, xây dựng nhân cách mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, và cụ thể, thực tiễn là việc làm cho nghệ thuật tuồng không bị mai một đi.
Hoàng Châu Ký đọc sách, nghiên cứu, sưu tầm, tìm hiểu các bộ môn sân khấu dân tộc khác, tìm hiểu hí khúc Trung Quốc, tìm hiểu các trường phái sân khấu hiện đại châu Âu như Stanhilapsky, Becton Brét… để so sánh đối chiếu, rút ra những đặc điểm của sân khấu Tuồng. Nhưng luôn luôn là con người của hành động thực tế, Hoàng Châu Ký học lại hát, học lại múa, học lại nhạc ... để khi nói chuyện cần thiết có thể tự minh họa luôn. Những buổi nói chuyện của ông thật là hấp dẫn. Ông đã đi hầu khắp các tỉnh ở miền Bắc để nói chuyện và để tìm kiếm những nghệ nhân giỏi Tuồng mới về Hà Nội tham gia xây dựng ngành Tuồng.
Đã có một thời như thế. Chúng ta làm sao mà có thể lục tìm trong thư viện những công trình "Khẩu thiệt vô bằng" của hàng trăm buổi diễn thuyết ấy cũng như giá trị của nó ? Những nghệ sĩ trẻ ngày nay, khi tràn trề hạnh phúc trước sự ngạc nhiên, chiêm ngưỡng và thán phục của khán giả thế giới hiện đại đối với Tuồng, có nhớ đến những người đã từng trăn trở lăn lộn để cho tuồng sống lại trên chính mảnh đất đã sản sinh ra nó! Thời đại cách mạng đã hun đúc nên những con người đa năng, uyên bác, không đi tìm danh vọng cá nhân, mà sẵn sàng tuôn cạn tri thức của mình cho sự nghiệp của nhân dân. Năm 1960, thành lập trường Sân khấu, đồng thời mở Khoa Tuồng, Hoàng Châu Ký được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng. Ban nghiên cứu Tuồng cũng thành lập thời gian ấy. Giáo viên giảng dạy đều là các nghệ sĩ nổi tiếng: Nguyễn Nho Túy (Đội Tảo), Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu (Quảng Nam), Phạm Thân (Nghĩa Bình), Lê Bá Tùng, Năm Túy (Nghệ An)... Đoàn Tuồng Bắc cũng được thành lập và muợn 19 biên chế của đoạn tuồng Liên khu Năm. Với lớp các diễn viên đầu tiên ra trường tài năng như Kim Cúc, Minh Ngọc, Tiến Thọ, Xuân Yến, Tạ Tạo. Bên cạnh các bộ môn sân khấu khác như Kịch nói, Cải lương, Chèo, sân khấu Tuồng ngày càng khẳng định giá trị của mình.
Ở trường, ngoài trách nhiệm Hiệu trưởng, Hoàng Châu Ký tham gia giảng dạy lịch sử sân khấu và Mỹ học. Ông càng chú tâm nghiên cứu nghệ thuật Tuồng. Sống trong một tập thể gắn bó các nghệ sĩ nổi tiếng, ông học tập các bài bản, các kinh nghiệm ở những người bạn vong niên của mình và xem xét nó bằng tư duy khoa học, nâng các kinh nghiệm lên thành những vấn đề lí luận để phục vụ cho việc đào tạo diễn viên. Các vấn đề đều được xem xét dưới các góc độ: văn học, ngôn ngữ, âm nhạc, vũ đạo, sân khấu, sư phạm, hội họa v.v... Những bài nghiên cứu của ông đều xuất phát từ yêu cầu thực tế của việc giảng dạy và biểu diễn. Những công việc cụ thể như sưu tầm và chỉnh lí các kịch bản tuồng truyền thống, dàn dựng các vở tuồng v.v... đã góp phần làm cho giá trị khoa học của các bài viết của ông thêm sâu sắc. Ngoài ra, cũng do yêu cầu của cách mạng và với sự say mê của mình. Hoàng Châu Ký cũng đã viết nhiều kịch bản tuồng có giá trị:
- Chỉnh lý, chuyển thể tuồng truyền thống: Nghêu Sò Ốc Hến, Ngọn lửa Hồng Sơn, Sơn hậu, Trưng Nữ Vương…
- Đồng tác giả: Vở “Ông Ích Khiêm” (Soạn chung với tác giả Tống Phước Phổ)
- Sáng tác: “Đường về Vụ Quang, Nguyễn Duy Hiệu, Cao Doãn, Thị Kính Thị Màu, Quay trúng trở về”…
Hoạt động sân khấu của Hoàng Châu Ký là hoạt động thực tiễn, song những công trình khảo cứu của ông cũng rất có giá trị về mặt khoa học. Điểm qua một số tác phẩm như: Giá trị vở Tuồng đồ Nghêu Sò Ốc Hến (cùng Phan Sĩ Phiên - 1965), Sơ khảo lịch sử nghệ thuật tuồng (1973), Tuồng cổ (1978), chúng ta cũng thấy rõ giá trị thực tiễn và giá trị khoa học của sự nghiệp nghiên cứu của ông.
Nếu giá trị vở Tuồng đồ “Nghêu Sò Ốc Hến” đề cập đến một vở tuồng thuộc thể tài hài kịch thì tác phẩm Tuồng cổ đề cập đến các vở Tuồng thuộc thể tài bi kịch. Cả hai chuyên khảo nay đều nghiên cứu tuồng trên nhiều mặt cơ bản của nó như lịch sử văn bản, thể loại, kết cấu kịch bản, mâu thuẫn và hành động kịch, giá trị văn học, ngôn ngữ nhân vật, tư tưởng, nội dung, gợi ý về tiếp thu và dàn dựng. Trong đó tác giả đưa ra kiến giải của mình về các khái niệm có tính chất phân loại mà lâu nay quen dùng như tuồng thầy - tuồng đồ - tuồng pho - tuồng cổ - tuồng cung đình - tuồng dân gian - tuồng văn thân - tuồng tiểu thuyết - tuồng hiện đại - tuồng lịch sử - tuồng ngự…
Cuốn Sơ khảo lịch sử nghệ thuật tuồng, như tên gọi của nó đã mô tả nghệ thuật tuồng trong những thời kì lịch sử chắc chắn còn khảo sát được và từ đó, kết hợp với việc nghiên cứu văn hóa, văn học, nghệ thuật dân tộc, đưa ra những nhận định về lịch sử ra đời bộ môn nghệ thuật này cũng như phỏng đoán về tương lai của nó. Quyển sách xứng đáng là một tài liệu dẫn luận, một giáo trình (sơ thảo) về lịch sử nghệ thuật tuồng.
Những tác phẩm nghiên cứu của Hoàng Châu Ký rõ ràng là chưa thể nào phản ảnh hết sự nghiệp hoạt động sân khấu tuồng, tri thức và cống hiến khoa học cho nghệ thuật tuồng của ông. Người giáo sư rất thực tiễn này cho đến nay vẫn không ngừng bị lôi kéo bởi các công việc thực tế, nhất là sau ngày nước nhà thống nhất, ông lại là người chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng và văn hóa mới. Tổ chức các đoàn tuồng, các đợt hội diễn, các phong trào văn nghệ quần chúng, các đợt đào tạo diễn viên trẻ, các đợt tổ chức nghiên cứu, trao đổi khoa học... cuốn hút ông. Ông bị thiệt thòi với các nhà khoa học khác, song ông lại có hạnh phúc của người suốt đời cày vỡ và gieo hạt trên cách đồng của mình.
Mời các bạn hãy đến gặp giáo sư, bao giờ bạn cũng sẽ bị lây niềm hăng say cống hiến cho cách mạng, niềm vui cao quí của một người có đời sống tinh thần phong phú. Giáo sư vẫn nghèo như tất cả chúng ta và như chúng ta, chịu đựng những khó khăn của cuộc sống hôm nay để làm việc tốt hơn nữa. Và trong đôi mắt nheo nheo của ông luôn luôn nhảy nhót những tia hài hước nhưng bao dung, mến khách.
Giáo sư Hoàng Châu Ký năm nay 65 tuổi đời, 45 tuổi Đảng. Trước đây ông là Viện trưởng Viện Sân khấu, nhưng hiện nay tuổi cao, ông không làm công tác lãnh đạo nữa, mà làm cố vấn khoa học cho Viện . Ông thường công tác ở Đà Nẵng, nhưng theo định kỳ vài ba tháng một lần, ông lại từ Đà Nẵng ra Hà Nội để dự sinh hoạt khoa học và nộp Đảng phí đều đặn.
NGUỒN: BÀI VIẾT SƯU TẦM TỪ TƯ LIỆU "TUỒNG QUẢNG NAM XƯA VÀ NAY"